TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 14 của 14 Đầu tiênĐầu tiên ... 4121314
Kết quả 66 đến 70 của 70

Chủ đề: Plato Và Con Thú Mỏ Vịt Bước Vào Quán Bar-Thomas Cathcart & Daniel Klein

  1. #66
    Ngày tham gia
    Jul 2017
    Bài viết
    1,241
    Xu
    0

    Mặc định

    X. Siêu Triết Học

    Triết học của Triết học. Đừng nhầm với Triết học về Triết học của Triết học.

    DIMITRI: Giờ thì tôi mới thật hiểu rõ món này, Tasso ạ.

    TASSO: Hiểu rõ cái gì?

    DIMITRI: Triết học, tất nhiên rồi!

    TASSO: Cậu gọi đây là triết học à?

    xXx

    Tiếp đầu ngữ meta (siêu), về cơ bản có nghĩa là “vượt ra khỏi và bao gồm tất cả những cái bên dưới”, bỗng nhiên xuất hiện khắp nơi trong diễn ngôn triết học, như trong siêu ngôn ngữ (metalanguage), một ngôn ngữ có thể dùng để mô tả ngôn ngữ. Hoặc trong siêu đạo đức, nó tìm hiểu các nguyên tắc đạo đức của chúng ta từ đâu mà ra, và chúng có ý nghĩa gì. Bởi vậy chỉ có siêu thời gian là cái duy nhất có trước khi xuất hiện siêu triết học.

    Siêu triết học vật lộn với câu hỏi cấp bách, “Triết học là gì?” Có lẽ bạn nghĩ các nhà triết học hẳn phải biết câu trả lời cho câu hỏi rằng họ thực sự đang làm gì. Điều đó khiến bạn băn khoăn về lý do vì sao họ biết họ muốn trở thành nhà triết học lúc ban đầu. Chúng ta không bao giờ nghe thấy người thợ làm tóc hỏi “Làm tóc là gì?” Nếu người thợ làm tóc bây giờ không biết việc làm tóc là thế nào thì anh ta đã chọn nhầm nghề. Chắc chắn chúng ta không bao giờ muốn để anh ta bới tóc cho các bà vợ của mình.

    Tuy nhiên, các nhà triết học hiện đại vẫn liên tục định nghĩa lại triết học. Ở thế kỷ hai mươi, Rudolf Carnap và các nhà thực chứng logic đã loại trừ khỏi triết học một mảng lớn khi tuyên bố siêu hình học vô nghĩa. Họ nói nhiệm vụ duy nhất của triết học là phân tích các mệnh đề khoa học [Rudolf Carnap (1891 -1970), nhà triết học người Mỹ gốc Đức, ủng hộ thuyết thực chứng logic].

    Người cùng thời với Carnap, Ludwig Wittgenstein, cha đẻ của triết học ngôn ngữ thông thường, thậm chí còn đi xa hơn. Ông cho rằng cuốn sách lớn đầu tiên của mình đã khép lại lịch sử triết học, bởi vì ông đã chứng minh rằng tất cả những luận đề triết học là vô nghĩa, kể cả của chính ông. Ông tin rằng ông đã khép lại quyển sách về triết học đến mức chuyển sang làm giáo viên dạy tiểu học. Ít năm sau, ông lại mở cuốn sách triết học với quan niệm mới về mục đích của triết học - chỉ là trị liệu, không hơn không kém! Bằng tuyên bố ấy, Ludwig ngụ ý rằng nếu chúng ta biết cách đơn giản hóa thứ ngôn ngữ rắc rối của mình, thì chúng ta tự chữa trị được nỗi buồn chán do những vấn đề triết học vô nghĩa gây ra.

    Ngày nay, “các nhà logic tình thái” - các nhà logic học phân biệt giữa những mệnh đề có thể đúng và những mệnh đề tất yếu đúng - băn khoăn không biết các mệnh đề của họ rơi vào loại phạm trù nào. Còn với chúng ta thì tất cả có lẽ đều như siêu mệnh đề cả.

    Chính trong truyền thống siêu triết học này chúng ta bắt gặp Seamus.

    Seamus sắp sửa có cuộc hò hẹn đầu tiên, bèn xin lời khuyên từ anh trai, một tay sát gái. “Chỉ em cách nói chuyện với con gái thế nào đi.”

    “Đây là bí quyết,” ông anh nói. “Các cô gái Ireland thích nói về ba thứ: thức ăn, gia đình và triết học. Nếu em hỏi một cô gái rằng cô ta thích ăn gì, có nghĩa là em tỏ ra quan tâm đến cô ấy. Nếu em hỏi cô ta về gia đình, thì chứng tỏ em là người có ý định nghiêm túc. Nếu bàn về triết học, chứng tỏ là em đánh giá cao trí thông minh của cô ta.”

    “Được! Cám ơn anh,” Seamus nói. “Đồ ăn, gia đình, triết học, em chơi được.”

    Đêm ấy, Seamus gặp cô gái trẻ, cậu ta buột miệng, “Em có thích ăn bắp cải không?”

    “Ồ, không,” cô gái bối rối nói.

    “Em có anh trai không?” Seamus hỏi.

    “Không.”

    “Vậy ư? Thế nếu em có anh trai, thì liệu anh ấy có thích ăn bắp cải không?”

    Đó là triết học đấy.

    ___oOo___

    Nhà triết học đương thời của chúng ta là William Vallicella (Nhà triết học Mỹ, sinh năm 1950) viết, “Siêu triết học là triết học về triết học. Bản thân nó là một ngành của triết học, không giống như triết học về khoa học không phải là một ngành của khoa học, hay triết học về tôn giáo không phải là một ngành của tôn giáo.”

    Chính những tuyên bố như thế này khiến cho Vallicella thành một người được săn đón trong những bữa tiệc đồng tính.

    ***

    Luận đề nền tảng sâu xa của cuốn sách này lại một lần nữa đúng. Nếu có siêu triết học, ắt phải có siêu truyện cười.

    Một người bán hàng lưu động đang chạy xe ở vùng nông thôn thì xe bị hỏng. Anh ta đi bộ nhiều dặm tới một ngôi nhà trang trại và hỏi xin chủ nhà cho ngủ nhờ qua đêm. “Được,” chủ nhà nói. “Vợ tôi chết đã nhiều năm, hai đứa con gái tôi đứa hăm mốt đứa hăm ba, nhưng hai đứa đi học đại học cả, còn tôi thì ở nhà một mình, nên tôi có nhiều phòng cho anh.”

    Nghe vậy, người bán hàng quay đầu và đi bộ ngược trở lại đường cao tốc. Người nông dân gọi với theo, “Anh không nghe tôi nói gì à? Tôi có nhiều phòng.”

    “Tôi có nghe, nhưng tôi nghĩ tôi đã lạc vào nhầm truyện cười rồi.”

    Và, tất nhiên, một siêu truyện cười cho bạn:

    Một người mù, một người đồng tính nữ và một con ếch bước vào một quán bar.

    Người chủ quán nhìn họ và nói, “Cái gì đây-đùa nhau à?”

    Còn cuối cùng, một siêu truyện cười động chạm chính trị. Cũng như siêu triết học cần đến các siêu triết gia để người ta có một số hiểu biết thế nào là triết học nói chung, siêu truyện cười cần những hiểu biết thế nào là truyện cười nói chung. Trong trường hợp này, là một truyện cười Ba Lan.

    Một gã đàn ông bước vào một quán rượu đông người và tuyên bố gã có một truyện cười Ba Lan cực sốc để kể. Nhưng gã chưa kịp kể, ông chủ quán bar đã nói, “Từ từ nào, anh bạn. Tôi là người Ba Lan đấy.”

    Và gã kia nói, “Ô kê, tôi sẽ kể rất, rất chậm thôi.”

    xXx

    DIMITRI: Vậy là chúng ta đã bỏ cả buổi chiều để thảo luận về triết học và cậu thậm chí không biết triết học là gì?

    TASSO: Vậy tại sao cậu còn hỏi?

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ---QC---
    ᴄẦᴜ ᴛʀᴜʏỆɴ ʜᴀʏ Hidden Content


  2. #67
    Ngày tham gia
    Jul 2017
    Bài viết
    1,241
    Xu
    0

    Mặc định

    Tổng Quan: Một Kết Luận

    Xem xét lại một cách cô đọng và toàn diện những gì chúng ta đã lĩnh hội được hôm nay.

    TASSO cầm micro tại Câu lạc bộ Hài Acropolis.

    TASSO: Nhưng, hoàn toàn nghiêm túc, thưa quý vị... Quý vị đã nghe nhà kinh nghiệm chủ nghĩa người Anh nói với vợ rằng nàng chẳng là cái gì khác ngoài một mớ dữ kiện cảm giác chưa?

    “Ồ thế hả?” nàng nói. “Anh nghĩ cảm giác sẽ như thế nào khi tối tối lên giường với một người đàn ông không có ding an sich (vật tự thân)?”

    Tôi không đùa đâu, tôi đã có vợ mười năm trước khi nhận ra rằng vợ tôi chỉ là sự tồn tại và không có bản thể. Ý tôi muốn nói đến sự tồn tại (esse) thực sự được tri giác (was percipi) của cô ấy.

    Có chuyện gì thế, quý vị? Ở đây im ắng quá, quý vị có thể nghe thấy tiếng cây đổ trong rừng... ngay cả khi quý vị không ở đó! Schopenhauer đã nói sẽ có những đêm như đêm nay.

    Bọn trẻ ngày nay hả? Hôm trước, thằng con tôi hỏi mượn chìa khóa xe của tôi, tôi bảo, “Con ạ, trong thế giới tốt nhất trong tất cả các thế giới có thể này, con nên có xe riêng của con.”

    Nhưng nó nói, “Nhưng, ba ơi, đây đâu phải thế giới tốt nhất trong tất cả các thế giới có thể.”

    Thế là tôi bảo, “Vậy thì về mà sống với mẹ mày!”

    Nhân tiện, có một chuyện buồn cười xảy ra trên đường tôi đến đây tối nay: Tôi đã bước vào cùng một dòng sông... hai lần.

    Còn nữa, một hôm Plato và con thú mỏ vịt bước vào một quán bar. Gã đứng quầy ném cho triết gia cái nhìn chế nhạo, còn Plato đáp, “Tôi biết nói gì đây? Ở trong hang trông nó xinh đẹp hơn.”

    DIMITRI (từ trong khán giả): Lôi hắn xuống đi!

    xXx

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ᴄẦᴜ ᴛʀᴜʏỆɴ ʜᴀʏ Hidden Content

  3. #68
    Ngày tham gia
    Jul 2017
    Bài viết
    1,241
    Xu
    0

    Mặc định

    Thi Cuối Khóa

    Sao nhỉ? Các bạn chưa lường đến việc này? Các bạn nghĩ tất cả chỉ để đùa chơi?

    Vậy thì, hãy nghĩ lại đi, các bạn. Không có cái gì kết thúc nếu bạn chưa đi đến đích.

    Tin vui là nó chỉ chiếm 35% điểm của các bạn. Tin buồn là nó chiếm 85% lòng tự tôn nói chung của các bạn.

    Nhưng tin vui nhất là nếu bạn gửi bài thi của bạn đến website của chúng tôi, https://platoandaplatypus.com/ và bạn nhận được một bằng danh dự cao nhất cho bài viết của bạn, chúng tôi sẽ gửi đến bạn phần thưởng là một chai retsina (vang Hy Lạp) có chữ ký của các tác giả hoặc một cốc nhỏ chứa độc cần do người thắng cuộc tự chọn.

    Độc cần: Chất độc có thể đã giết chết nhà triết học Socrates.

    Đề thi như sau:

    Xem ba truyện cười sau. Dùng không quá ba mươi lăm từ cho mỗi câu chuyện, để mô tả quan điểm triết học hay trường phái tư tưởng mà chúng minh họa, và mô tả cách chúng minh họa. Gian lận tùy ý.

    TRUYỆN CƯỜI SỐ 1: [XIN LỖI CÁC BẠN SARDAR CỦA CHÚNG TÔI]

    Một gã Sardar đi du lịch bằng tàu hỏa. Gã cảm thấy buồn ngủ, nên đưa cho người ngồi đối diện hai mươi rupi để đánh thức gã dậy khi tàu đến ga của gã. Ngẫu nhiên anh chàng kia lại là một thợ cạo, và anh ta nghĩ với số tiền hai mươi rupi gã kia đáng được phục vụ nhiều hơn, nên khi gã Sardar đang ngủ, anh ta lặng lẽ cạo râu cho gã.

    Tàu đến ga, người thợ cạo đánh thức gã Sardar dậy, gã xuống tàu và về nhà. Vừa bước vào toilet để rửa mặt, gã nhìn vào gương và gào lên.

    “Có chuyện gì thế?” Vợ gã hét lên hỏi.

    Gã Sardar trả lời, “Thằng lừa đảo trên tàu lấy mất của tôi hai mươi rupi rồi đi đánh thức một người khác!”

    TRUYỆN CƯỜI SỐ 2:

    Ba gã cùng chết trong một tai nạn và lên thiên đường. Khi họ đến nơi, Thánh Peter nói, “Ở đây, trên thiên đường này chỉ có một quy tắc duy nhất: không được giẫm vào lũ vịt.”

    Thế rồi họ đi vào thiên đường, quả tình, đâu đâu cũng thấy toàn vịt là vịt. Hầu như không thể đi một bước mà không giẫm phải một con vịt. Mặc dù họ đã hết sức cố tránh giẫm vào chúng, gã đầu tiên bất ngờ đạp trúng một con.

    Thánh Peter lập tức hiện ra cùng với một người đàn bà xấu xí nhất mà gã kia từng nhìn thấy. Thánh Peter xích họ lại với nhau và bảo, “Hình phạt của ngươi vì đã giẫm lên vịt là sẽ vĩnh viễn bị xích với người đàn bà xấu xí này!”

    Hôm sau, gã thứ hai lại vô tình giẫm trúng một con vịt, Thánh Peter lại hiện ra, và cùng với ngài là một người đàn bà cực kỳ xấu xí khác. Ngài xích họ lại với nhau với cùng hình phạt: họ bị buộc với nhau vĩnh viễn.

    Gã thứ ba đã chứng kiến tất cả cảnh ấy và không muốn bị xích vĩnh viễn vào một người đàn bà xấu, nên rất, rất cẩn thận khi bước đi. Gã đã cố đi được một tháng mà không giẫm phải con vịt nào, nhưng một hôm Thánh Peter đến trước gã với một người đàn bà đẹp lộng lẫy mà gã chưa từng trông thấy, một cô gái tóc vàng hoe cao ráo, đẫy đà, và sexy. Thánh Peter xích họ lại với nhau mà không nói một lời. Gã trai băn khoăn: “Tôi tự hỏi mình đã làm gì để xứng đáng được xích cùng với nàng đến vĩnh cửu?”

    Người phụ nữ đáp: “Tôi không biết anh, nhưng tôi đã giẫm phải một con vịt.”

    TRUYỆN CƯỜI SỐ 3:

    Một người đàn ông đang lái xe xuôi theo một con đường.

    Một phụ nữ lái xe chạy ngược lên cũng trên con đường đó.

    Họ đi qua nhau.

    Người phụ nữ hét lên qua cửa xe, “Lợn!”

    Người đàn ông hét lại, “Chó cái!”

    Người đàn ông quay đầu xe ở khúc cua kế tiếp, đụng phải một con lợn to tướng nằm ngay giữa đường, và chết.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ᴄẦᴜ ᴛʀᴜʏỆɴ ʜᴀʏ Hidden Content

  4. #69
    Ngày tham gia
    Jul 2017
    Bài viết
    1,241
    Xu
    0

    Mặc định

    Những Khoảng Khắc Vĩ Đại Trong Lịch Sử Triết Học

    530 tr. CN. Ngày thứ 83 dưới gốc cây bồ đề, Thích Ca mỉm cười bí hiểm khi liên tưởng đến một trò chơi cốc-cốc.
    Phật Thích Ca, 563-483 tr, CN.

    Zeno ở Elea, 490-425 tr. CN.
    Socrates, 469-399 tr. CN.

    381 tr. CN. Plato thấy những cái bóng trên vách hang đá và cắt nghĩa rằng mùa đông còn kéo dài sáu tuần nữa.

    399tr. CN. Sicrates uống độc cần pha xâđa- kèm một lát chanh.

    Plato, 427-347 tr. CN.
    Aristotle, 384-322 tr. CN.
    Phái Khắc kỳ, bắt đầu Tk4 tr. CN.

    399 CN. Một bài phê bình trong Alexandria Asp gọi chủ nghĩa Plato mới cảu Hypatia là " văn chương đàn bà" (chick lit).

    St. Augustine, 354-430
    Hypatia, 370-415

    1328. Willian Occam sáng chế dao cạo Gillete Mach 3
    Willian Occam, 1285-1347

    1504. Một người thích đùa dán băng khẩu hiệu "Những Hành động Ngẫu nhiên của Lòng tốt" lên xe nghựa của Nick Machiavelli.
    Nick Machiavelli, 1469-1527

    1650. René Descartes ngừng tư duy một giây và chết.

    1652. Pascal đến trường đua ngựa Longchamp, tại đó ông cá một số tiền lớn lên con ngựa có tên "Chúa Trời". Ông đã thua.

    Thomas Hobbes, 1588-1679
    René Descartes, 1596-1650
    Blaise Pascal, 1623-1662
    Baruch Spinoxa, 1632-1677
    John Locke, 1632-1704
    Gottfried W.von Leibniz, 1646-1716

    1731. Giám mục Berkeley giam mình 30 ngày trong một cái thùng làm mất cảm giác và sau đó ra ngoài với đầu óc không thay đổi.

    1754. Immanuel Kant đối mặt một ding an sich - và nói ông "không thể nói về nó."

    1792. Một bài nhận xét trên báo Manchester Guardian liệt cuốn "Chứng minh các quyền của phụ nữ" của Mary Wollstonecraft vào loại "van chương đàn bà" (chick lit)

    George Berkeley, 1685-1753
    David Hume, 1711-1776
    Jean-Jacques Rousseau, 1712-1778
    Adam Smith, 1723-1790
    Immanuel Kant, 1724-1804
    Mary Wollstonecraft, 1759-1797

    1818. Các anh lớn Chico, Groucho, Gummo, Harpo và Zeppo chào đón em bé Karl ra đời.

    1844. Chán bị coi là "Thằng Đan Mạch u sầu, Kierkegaard định đổi quốc tịch.

    1900. Nietzche chết. Thượng đế chết sáu tháng sau đó vì vỡ tim.

    Jeremy Bentham, 1748-1832
    G.W.F. Hegel, 1770-1831
    Arthur Schopenhauer, 1788-1860
    John Stuart Mill.1806-1873
    Soren Kierkegaard, 1813-1855
    Karl Marx, 1818-1883
    William James, 1842-1910
    Friedrich Nietzsche, 1844-1900
    Edmund Husserl, 1859-1938

    1954. Jean-Paul Sarte từ bỏ sự nhgiệp triết học của mình để làm một người hầu bàn.

    1958. Bài phê bình trên Le Monde liệt cuốn Giới tính thứ 2 của Simone de Beauvoir vào loại "văn chương đàn bà".

    1966. Làm thêm ca đêm ở công ty Giải trí Đô vật Thế giới (WWE), Kripke chính thức đổi tên thành Nhà Định danh Cứng
    (The Rigid Designator)

    Alfred North Whitehead, 1861-1947
    Bertrand Russell, 1872-1970
    Ludwig Wirrgenstein, 1889-1951
    Martin Heidegger, 1889-1976
    Rudolf Carnap. 1891-1970
    Gilbert Ryle, 1900-1976
    Karl Popper, 1902-1994
    Jean-Paul Sartre, 1905-1980
    Simone de Meauvoir, 1908-1986
    W.V.O. Qiune, 1908-2000
    John Austin, 1911-1960
    Albert Camus, 1913-1960
    Michel Foucault, 1926-1984
    Saul Kripke, 1940-
    Peter Singer, 1946-

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ᴄẦᴜ ᴛʀᴜʏỆɴ ʜᴀʏ Hidden Content

  5. #70
    Ngày tham gia
    Jul 2017
    Bài viết
    1,241
    Xu
    0

    Mặc định

    Chú Giải Thuật Ngữ

    Bản chất luận (essentialism): Quan điểm triết học cho rằng mỗi đối tượng đều có những bản chất, hay các đặc tính thuộc bảnchất, có thể phân biệt với các đặc tính ngẫu nhiên, không bản chất. Chẳng hạn, đặc tính bản chất của một người đàn ông có vợ là anh ta có vợ (có khi là người vợ giống đực). Nhưng sự hiện diện của chiếc nhẫn cưới trên ngón tay người đàn ông có vợ chỉ là đặc tính ngẫu nhiên. Anh ta có thể vẫn là người có vợ mà không đeo nhẫn cưới, mặc dầu vợ anh ta có thể cãi vã về điều này.

    Bản thể (Noumenal): liên quan đến sự vật tự thân, đối lập với những gì sự vật thể hiện trước cảm giác của chúng ta. Xem vật tự thân... nhưng một lần nữa, bạn không thể, đúng không? Trái nghĩa: Hiện tượng.

    Chủ nghĩa duy lý (rationalism): Quan điểm cho rằng lý trí là con đường chính - hay duy nhất - dẫn đến tri thức. Nó thường tương phản với chủ nghĩa kinh nghiệm, quan điểm cho rằng kinh nghiệm tri giác là con đường chính dẫn đến tri thức. Theo truyền thống, các nhà duy lý thích lý trí hơn bởi vì cảm giác vốn mang tiếng không đáng tin cậy, và vì vậy tri thức dựa trên chúng là không chắc chắn. Họ thích sự chắc chắn tột độ của những kết luận đạt được nhờ lý trí, như “Đây là thế giới tốt nhất trong những thế giới có thể có.” Bạn cần phải đến đó...

    Chủ nghĩa hiện sinh (existentialism): Trường phái triết học tìm cách mô tả thực trạng sự tồn tại của cá nhân con người chúng ta, thay vì những phẩm chất người phổ quát, trừu tượng. Theo khẳng định của Sartre, “tồn tại có trước bản chất”. Điều đó có nghĩa là đời sống thực của chúng ta là điều cốt yếu nhất trong chúng ta, và chúng ta tự tạo ra bản chất của chính mình. Tư tưởng này tác động sâu sắc đến đạo đức học hiện sinh, nó cổ vũ chúng ta luôn luôn sống “đích thực”, ý thức đầy đủ về việc chúng ta có thể chết và không lầm tưởng về những lựa chọn của chúng ta - tóm lại, những mối bận tâm đại loại là thích hợp nhất để nghiền ngẫm bên tách cà phê kèm điếu thuốc lá trong một tiệm cà phê Paris, hơn là, chẳng hạn, bên băng chuyền lắp ráp xe hơi trong một nhà máy ở Detroit.

    Chủ nghĩa kinh nghiệm (empiricism): Quan điểm cho rằng kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm cảm giác, là con đường chủ yếu - hay duy nhất - dẫn đến tri thức. “Làm sao anh biết có con kỳ lân?” “Bởi vì tôi vừa trông thấy một con trong vườn!” Giờ thì chúng ta gọi đấy là chủ nghía kinh nghiệm cực đoan. Trái nghĩa với chủ nghĩa duy lý.

    Chủ nghĩa thực dụng (pragmatism): Một trường phái triết học nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tế. Chẳng hạn, William James định nghĩa một lý thuyết đúng là một lý thuyết có ích, hay là một lý thuyết sinh ra nhiều hiểu biết mới. Một số người cho định nghĩa của James là hữu ích, một số khác thì không cho là vậy.

    Chủ nghĩa vị lợi (Utilitarianism): Triết lý đạo đức cho rằng hành động đúng là hành động mang lại nhiều điều tốt lành cho những người chịu tác động của nó hơn bất kỳ hành động nào khác. Lợi ích có hạn của triết lý đạo đức này trở nên rõ ràng khi bạn cố gắng làm vừa lòng cả mẹ đẻ và mẹ vợ trong ngày Lễ Tạ Ơn.

    Công án (koan): trong Thiền Phật giáo câu đố có mục đích khiến chúng ta bị sốc đến mức đốn ngộ. “Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?” như thể một trò lừa. “Tiếng vỗ của hai bàn tay là gì?” thì không lừa nữa. Xem thêm Đốn ngộ (satori).

    Đạo nghĩa học (deontologicai ethics): Môn đạo đức học đặt nền tảng trên lý thuyết cho rằng các nghĩa vụ đạo đức dựa trên bổn phận (lấy từ chữ deon của tiếng Hy Lạp) hoàn toàn không phụ thuộc vào hậu quả thực tế của hành động. Chẳng hạn, một lãnh tụ chính trị tin rằng bổn phận cao cả của ông ta là bảo vệ cộng đồng khỏi sự tấn công của bọn khủng bố có thể biện luận rằng để thực hiện bổn phận ấy ông ta phải cho đặt máy nghe trộm ở phòng ngủ của mọi người, bất kể hậu quả của việc này đối với đời sống tình dục của bạn.

    Ding an sich: Vật-tự-thân, đối lập với biểu hiện cảm quan của một sự vật. Ý niệm này cho rằng một sự vật bất kỳ hàm chứa trong nó nhiều hơn tổng số những dữ liệu cảm quan của nó (nghĩa là trông, nghe, ngửi, sờ, nếm nó như thế nào), và rằng có vật-tự-thân tồn tại đằng sau tất cả những dữ liệu cảm quan, và nó độc lập với các dữ liệu ấy. Một số nhà triết học cho rằng khái niệm vật-tự-thân thuộc cùng một phạm trù như con kỳ lân và ông già Noel.

    Đốn ngộ (Satori): Trong Thiền tông Phật giáo, một kinh nghiệm giác ngộ trong đó chúng ta đột nhiên thấy rõ chân tính của chúng ta và thế giới. Trích dẫn Red Hot Chili Peppers (Ban nhạc rock của Mỹ, thành lập năm 1983): “Nếu anh phải hỏi, nghĩa là anh không biết.”

    Hậu nghiệm (a posteriori): Biết nhờ kinh nghiệm, biết qua trải nghiệm. Để biết một loại bia nào đó uống ngon mà không gây đầy hơi, chúng ta phải từng có trải nghiệm (uống) ít nhất một loại bia ngon và không bị đầy hơi. Trái nghĩa với tiên nghiệm.

    Hiện tượng (phenomenal): liên quan đến kinh nghiệm cảm giác của chúng ta về sự vật. “Đó là chiếc mũ đỏ” gắn với kinh nghiệm cảm giác của chúng ta về một vật thể có màu đỏ và có hình dạng chiếc mũ. Nhưng câu “Ôi! Chiếc mũ màu đỏ của cô đúng là một hiện tượng” thì có thể không phải vậy. Trái nghĩa với Bản thể.

    Hiện tượng học (phenomenology): Phương pháp nghiên cứu cố gắng mô tả thực tại như nó được tiếp nhận và hiểu bởi ý thức con người, ngược lại với, chẳng hạn, mô tả có tính khoa học. Ví dụ, hiện tượng học mô tả hiện tượng “thời gian sống” hay thời gian như chúng ta trải nghiệm nó, so với “thời gian đồng hồ.” Trong phim Manhattan khi Woody Allen nói, “chúng ta hầu như chẳng mấy khi làm tình, chỉ có hai lần một tuần” thì anh ta nói đến “thòi gian sống”; cũng như khi người vợ trong phim của anh tuyên bố, “Anh ấy luôn luôn muốn làm tình - gần như hai lần một tuần!”

    Lập luận hồi quy vô tận (infinite regress argument): Sự chứng minh không giải thích thỏa mãn được hiện tượng vì cần đến một chuỗi bất tận những “giải thích” tương tự nhau. Chẳng hạn, việc giải thích sự tồn tại của thế giới bằng cách thừa nhận có một “Đấng Sáng thế” làm phát sinh câu hỏi vậy phải giải thích được sự tồn tại của Đấng Sáng tạo đó như thế nào. Nếu thừa nhận có một Đấng Sáng tạo khác, sẽ có câu hỏi: “Ai sáng tạo ra Đấng Sáng tạo đó?” Và sẽ cứ như thế mãi, đến bất tận; hoặc đến lúc phát nôn, tùy cái gì xảy đến trước.

    Logic diễn dịch (deductive logic): Lập luận từ một tập hợp các tiền đề mà từ đó có thể suy ra kết luận một cách hợp lý. Dạng cơ bản nhất của logic diễn dịch là tam đoạn luận, ví dụ “Mọi tác giả hài đều là triết gia; Larry, Moe, Curly là những tác giả hài; vậy Larry, Moe, Curly là những triết gia.” Trái nghĩa với logic quy nạp.

    Logic quy nạp (inductive logic): Lập luận đi từ những trường hợp riêng đến một kết luận chung có hàm ý rộng hơn những gì có thể suy ra một cách hợp lý từ những trường hợp riêng ấy. Chẳng hạn, khi quan sát thấy mặt trời mọc hôm nay, hôm qua và mọi ngày từ hôm qua trở về trước, chúng ta đi đến kết luận rằng mặt trời đã luôn mọc và sẽ tiếp tục mọc lên hằng ngày, ngay cả khi kết luận này không thể suy ra được một cách hợp lý từ những trường hợp đã biết. Ghi chú: ví dụ này vô tác dụng với các độc giả của chúng ta ở Bắc Cực. Trái nghĩa với logic diễn dịch.

    Mệnh đề phân tích (analytic statement): Mệnh đề đúng theo định nghĩa. Chẳng hạn “Mọi con vịt đều là chim” là mệnh đề phân tích vì khi nói “vịt” chúng ta ngụ ý đến một loài thuộc họ chim. Mặt khác, “Mọi con chim đều là vịt” không phải là mệnh đề phân tích vì tính chất vịt không phải là yếu tố bắt buộc trong khái niệm “chim”. Hiển nhiên, “Mọi con vịt đều là vịt” là mệnh đề phân tích, cũng như “Mọi con chim đều là chim”. Thật phấn khởi khi thấy triết học có khả năng giúp ích thiết thực cho các môn khác, chẳng hạn điểu cầm học. Trái nghĩa với mệnh đề tổng hợp.

    Mệnh đề tổng hợp (synthetic statement): Một mệnh đề không đúng theo định nghĩa. Chẳng hạn “Mẹ anh đi đôi giày quân dụng”. Nó thêm vào một thông tin vốn không có trong định nghĩa “mẹ anh”. Điều này cũng đúng với mệnh đề hệ quả “Mã Hữu Hữu đi đôi giày quân dụng”. Trái nghĩa với mệnh đề phân tích.

    Mệnh lệnh tuyệt đối tối cao (supreme categorical imperative): Nguyên tắc đạo đức quan trọng nhất của Immanuel Kant, rằng người ta chỉ nên hành động theo những châm ngôn đạo đức nào có thể nhất quán áp dụng như một quy luật phổ biến. Nó khá giống quy tắc vàng với đôi chút biến tướng, nhưng không hoàn toàn như vậy.

    Nghịch lý (Paradox): a) một đoạn lập luận sử dụng logic có vẻ chặt chẽ và những tiền đề có vẻ đúng, nhưng vẫn dẫn đến mâu thuẫn; b) hai bác sĩ bất kỳ.

    Post hoc ergo propter hoc: Một ngụy biện logic, có nghĩa nguyên văn là “xảy ra sau cái này, do đó, do cái này gây ra”; ngụy biện rằng vì A xảy ra trước B, do đó A phải là nguyên nhân của B. Cuốn sách Freakonomics (Kinh tế học hài hước) dẫn ra cho chúng ta vô số những ngụy biện như thế, đặc biệt trong lĩnh vực nuôi dạy con cái. Một ông bố nói “Thằng bé nhà tôi thông minh bởi vì tôi chơi Mozart cho nó nghe khi nó còn trong bụng mẹ,” trong khi hai sự việc này thực sự chẳng có mối liên hệ nào. May ra thằng bé thông minh vì nó có bố mẹ đã nghe Mozart (tức là họ có giáo dục và do đó có thể cũng thông minh).

    Quy luật phi mâu thuẫn (Law of Noncontradiction): Quy tắc logic của Aristotle, rằng một vật không thể đồng thời vừa là A vừa là không A. Sẽ là tự mâu thuẫn khi nói “Quần của anh đang cháy, với quần của anh không đang cháy.” Bất chấp luật này của Aristotle, trong hoàn cảnh này cứ dùng vòi mà tưới nước cho mạnh cũng không hại gì.

    Telos: Mục đích nội tại. Mục đích nội tại của một quả sồi là trở thành một cây sồi. Tương tự, mục đích nội lại của một nghiên cứu sinh triết học là được phong hàm giáo sư ở Harvard. Đó là mục đích nội tại của anh hay chị ta, cho dù có những cơ hội thăng tiến tuyệt vời ở chuỗi siêu thị Wal-Mart.

    Thuyết cảm xúc (emotivism): Khuynh hướng triết học đạo đức cho rằng các phán xét đạo đức không đúng cũng không sai, mà chỉ biểu hiện sự tán thành hay phản đối của chúng ta đối với một hành động hoặc một cá nhân thực hiện một hành động nhất định hay một loạt hành động. Theo quan điểm triết học này, mệnh đề “Saddam là kẻ ác” chỉ đơn giản có nghĩa là “Saddam không phải là thứ nằm trong bộ nhớ của tôi. Tôi không biết; tôi không quan tâm thằng cha đó.”

    Tiên nghiệm (a priori): Biết trước kinh nghiệm, không phụ thuộc vào kinh nghiệm. Chẳng hạn, dù chưa từng xem một buổi biểu diễn American Idol nào, chúng ta vẫn có thể chắc chắn rằng, tất cả những người tham gia vào buổi diễn đều tin rằng mình là ca sĩ, vì American Idol là một cuộc thi hát cho những người - vì những lý do mà bản thân họ biết rõ nhất - tin rằng mình là ca sĩ. Trái nghĩa với Hậu nghiệm.

    Triết học ngôn ngữ thông thường (ordinary lauguage philosophy): Trào lưu triết học tìm cách hiểu những khái niệm triết học thông qua khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ thông thường. Theo các triết gia của trường phái này, nhiều vấn đề khiến các nhà tư tưởng rối trí suốt nhiều thiên niên kỷ, chỉ vì sự mơ hồ và lệch lạc logic tồn tại ngay trong cách nêu vấn đề. Trào lưu này đanh dấu sự chấm dứt của Kỷ nguyên hoang mang.

    HẾT

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ᴄẦᴜ ᴛʀᴜʏỆɴ ʜᴀʏ Hidden Content

    ---QC---


Trang 14 của 14 Đầu tiênĐầu tiên ... 4121314

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status