Nguồn: Tạp chí VHNT số 376, tháng 10-2015

Tác giả: ĐẶNG THỊ HUỆ

Tính bản địa của nghệ thuật Đông Sơn

Trống đồng có tuổi trên 2.000 năm phát hiện đầu tiên 1924 tại làng Đông Sơn bên bờ sông Mã và thuật ngữ Văn hóa Đông Sơn chính thức nêu tên trong giới nghiên cứ‌u khảo cổ quốc tế từ 1934 do nhà nghiên cứ‌u người Áo R_Heine Gelderm đ‌ề nghị.

Khai quật, sưu tầm và nghiên cứ‌u nền Văn hóa Đông Sơn trải qua tròn 85 năm. Hàng trăm khai quật khảo cổ học của các nhà nghiên cứ‌u trong và ngoài nước tiến hành.

Những hiện vật sưu tầm được từ các khai quật này hiện đang lưu giữ ở nhiều bảo tàng từ trung ương tới các địa phương, kể cả một số bảo tàng lớn trên thế giới ở Pháp, Bỉ, Thụy Điển, Anh, Mỹ.

Tới nay gần 500 di tích, hàng vạn di vật thuộc Văn hóa Đông Sơn - một nền văn hóa thời đại kim khí cách nay 2.000-2.600 năm được phát hiện, nghiên cứ‌u.

Triển lãm chuyên đ‌ề Tiếng vọng Đông Sơn - Những hiện vật mới phát hiện từ 2004-2009 đang diễn ra tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam nhân kỷ niệm 85 năm phát hiện Văn hóa Đông Sơn một lần nữa minh chứng tính độ‌c đáo và nghệ thuật rực rỡ của nền văn minh Lạc Việt thời các Vua Hùng.

Triển lãm trưng bày hơn 100 hiện vật, nhiều hiện vật chưa từng xuất hiện trong các sưu tập Văn hóa Đông Sơn trong nước cũng như trên thế giới như sưu tập đèn ở di chỉ Làng Vạc (Nghệ An), trống đồng có kiểu dáng và hoa văn khác lạ trang trí hình người kéo thuyền được tìm thấy ở Tây Nguyên, thạp có chân trổ thủng tìm thấy ở Thanh Hóa..

Các hoa văn và tượng tròn trang trí trên các di vật trưng bày tại triển lãm thực sự gây ngạc nhiên và xúc động cho người xem bởi tính sáng tạo và cách điệu cao của nghệ thuật Đông Sơn.

Như trước đây, giới nghiên cứ‌u trong nước và thế giới vẫn luôn có những nghi ngờ về tính bản địa đồ đồng Đông Sơn. Cuốn bút ký khảo cổ học Bí mật cây đèn hình người, nhà khảo cổ học Thụy Điển O_Janse kiến gi‌ải cội nguồn cây đèn được tìm thấy ở Lạch Trường (Thanh Hóa) có nguồn gốc từ Hy Lạp vì trên gương mặt tượng người có những đặc điểm giống vị thần rượ‌u nho Dionysos.

Một số nhà nghiên cứ‌u cho rằng cây đèn nguồn gốc Hán gắn tích Trung Nguyên bắ‌t tù binh Hung Nô làm người hầu đội đèn. Với bộ đèn đồng hoành tráng đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử mới phát hiện những năm gần đây, Tiến sĩ Phạm Quốc Quân, Giám đốc Bảo tàng khẳng định:

"Giờ đây, bộ sưu tập đèn trong tay có niên đại tương đồng Lạch Trường khiến cây đèn Lạch Trường không còn đơn độ‌c và từng chi tiết của những cây đèn không hề Tây, không hề Hán chút nào.

Chúng là những sản phẩm của Đông Sơn, ít nhiều có ảnh hưởng bên ngoài, nhưng pha trộn và hòa tan từ người Đông Sơn. Chúng luôn để người xem có cảm giác không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ đâu và dường như có cách bứ‌c về thời gian và không gian, đến nay, không nhậ‌n thấy bất cứ nguồn gốc nào, ngoài chất Đông Sơn của những cây đèn ấy."

So sánh bộ đèn hươu, bò, voi ở dạng tượng tròn tại triển lãm với các hoa văn trang trí trên trống đồng, thấy tương đồng thú vị khi các nghệ nhân Lạc Việt xưa tạo hình trong không gian ba chiều và vẽ đồ họa trang trí trên mặt phẳng.

Những hình khối khỏe khoắn, căng đầy nhấn mạnh những đường nét kỷ hà hình học hơn là đi vào tả thực những đường uốn mềm mại.

Lần nữa tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Đông Sơn khẳng định. Rất thú vị khi nghe nghệ sĩ gốm Đan Mạch Michel Geertsen nhậ‌n xét khi anh thăm các bảo tàng tại Hà Nội:

"Những nghệ sĩ trẻ phương Tây chúng tôi luôn cố gắng tìm những cách thức tạo hình tối gi‌ản hiện đại. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy các di vật gốm và đồng Đông Sơn ở Việt Nam. Các nghệ nhân xa xưa của các bạn còn hiện đại hơn cả chúng tôi. Những hình khối cường điệu và tối gi‌ản là điều chúng tôi hướng tới."

Lý gi‌ải về tính bản địa của nghệ thuật Đông Sơn, có thể trích dẫn nhậ‌n xét của PGS Nguyễn Du Chi:

"Nền văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa thời các Vua Hùng dựng nước, có nguồn gốc bản địa vì chúng ta có nền Văn hóa Phùng Nguyên (tiền Đông Sơn) hết sức rực rỡ trước đó."

Điều này càng minh chứng rõ ràng hơn, khi các học gi‌ả hàng đầu về đồ đồng và đồ gốm Trung Quốc tiếp xúc bộ hiện vật hậu Đông Sơn ở Hà Nội, thấy bình con tiện, ấm ba chân, mô hình nhà.. không hề rung động để coi đây là sản phẩm từ triều đại Đông Hán của họ.

Nhìn tổng thể và đơn gi‌ản hơn, ta sẽ thấy toàn bộ hoa văn, tượng tròn trang trí Đông Sơn đều diễn tả thế giới thiên nhiên với các loài muông thú và đời sống cư dân Lạc Việt với những lễ hội và phong tụ‌c tập quán vẫn có một sợi dây liên hệ liền mạch đến nay - đó là con người và thiên nhiên đất Việt.

Link

Nghệ thuật

Tâm hồn người Đông Sơn

Người Đông Sơn là cư dân đôn hậu, sống trong xã hội tương đối thanh bình, hài hòa với tự nhiên, mọi tầng lớp trong xã hội chưa phân biệt rạch ròi.

Điều đó truyền tụng qua các đời mà Phan Huy Chú còn ghi lại:

"Bấy giờ, vua tôi cùng đi cày, cha con tắm cùng (dòng sông) không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền thứ bậc.. cùng nhau vui chơi vô sự, gọi là đời rất hồn nhiên" (Phan Huy Chú, bản dịch 1960)

Có lẽ xã hội người Việt bấy giờ chưa phân hóa thành các giai tầng quá sâu sắc, các thành viên còn coi sự công bằng về mặt vật chất và quyền lợi là một trong những giá trị đẹp của cuộc sống:

"Hùng Vương đi săn được thú lấy bộ lòng cùng ăn tại chỗ, thịt về nhà chia" (Nguyễn Khắc Xương, 1970)

Cuộc sống người Đông Sơn an cư lạc nghiệp thể hiện quá trình chinh phục đồng bằng và ven biển một cách chắc chắn.

Các di tích khảo cổ học thời Đông Sơn mở rộng hơn thời tiền Đông Sơn rất nhiều, ở chân núi, lan tỏa xuôi theo các sông lớn ra ven biển.

Thiên nhiên phong phú khoáng đạt giúp người Đông Sơn có tâm hồn thanh bình của cư dân lấy nông nghiệp lúa nước làm nền tảng, chu kỳ thời vụ, gần gũi cây cỏ, vật nuôi, sông nước làm nhịp chứ không dữ dội như tính cách cư dân vùng đồng cỏ chuyên săn bắn và chăn nuôi ở nước Điền (Vân Nam) là nền văn hóa rất gần gũi Đông Sơn.

Âm nhạc

Dịp tế lễ hay hội lớn, dao găm, rìu dùng múa vũ trang; thạp, thố, chậu dùng đựng đồ tế lễ đều trang trí nên trống đồng với vị trí là chủ thể trong bộ lễ khí cũng trang trí hết sức công phu, phức tạp.

Chức năng trống đồng ban đầu là công cụ thông tin:

Trống ra trận xuất quân, trống tập hợp cư dân một làng, một bộ tộc.. mang thêm chức năng nhạc khí thiêng liêng. Trống đánh để hiệu triệu quần chúng và chư vị thần linh cõi thiêng trời đất.

Xét góc độ âm nhạc, trống đồng là nhạc cụ tạo tiết tấu cho giàn nhạc.

Bằng nghệ thuật đúc trống, dùng đặc tính hợp kim tạo cho trống âm thanh trầm hùng, ấm mà không đục, vang không rè.

Chỉ riêng 1 trống đồng đã có một số âm chứ không phải 1 âm đơn điệu.

Người xưa đánh trống chủ yếu ở giữa mặt nơi ngôi sao – mặt trời đúc dày, nổi rõ. Người xưa đánh ở nhiều điểm khác nhau trên mặt trống, tang trống và cả thân trống tạo âm thanh khác nhau. Ví dụ đo âm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ của Cao Xuân Hạo:

- Ngôi sao giữa có nốt mi

- Vành hoa văn 1-3 có Si giáng

- Vành hoa văn 4-5 có Mi-Pha

- Vành hoa hăn 7 có Si giáng

- Vành hoa văn 9 trở lại nốt Mi

Kết cấu trống đồng cho thấy trống có 1 thùng cộng hưởng rộng độc đáo:

Phần tang phình to, phần thân và chân loe rộng giúp trống có âm thanh vang xa, từ những âm ban đầu nhân lên về cường độ.

Người xưa còn đào hố rộng, treo trống đồng lơ lửng giữa hố, giúp âm thanh mạnh hơn. Hố như thùng cộng hưởng.

Hình ảnh những hố cộng hưởng thấy trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và thấy ở nhiều dân tộc dùng trống đồng.

Hình người đánh trống trên trống đồng Ngọc Lũ cho thấy 4 người ngồi dùng dùi trống đánh như giã gạo theo hướng thẳng đứng như người Mường. Dùi bằng gỗ đầu bịt vải hoặc bằng thoa vàng thoa bạc.

Sử dụng nhiều trống.. mỗi trống có kích thước khác nhau, sản sinh những thanh âm khác nhau, âm đặc trưng mỗi trống, âm các phần mỗi trống kết hợp nên giai điệu đa dạng trầm hùng.

Hình ảnh trống da thấy trên mặt trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà là những hình khắc trên thuyền để giữ nhịp chèo trong hội đua hay gõ nhịp cho đôi trai gái hát đối đáp trong nhà sàn với cách đánh ngang như ngày nay ta thấy.

Trống da có thể cũng có chức năng truyền tin như trống đồng, hoặc chức năng trống lệnh trong chiến trận.

Hình khắc trên trống đồng cho thấy xuất hiện cồng chiêng trong giàn nhạc thời Đông Sơn.

Nay vẫn chưa tìm thấy cồng chiêng trong tài liệu khảo cổ Đông Sơn tuy tài liệu dân tộc học có nhiều về vai trò, ý nghĩa cồng chiêng đối với văn hóa các tộc người vùng Tây Nguyên.

Cả dân tộc Mường có cồng chiêng để đón khách. Nếu có cồng chiêng trong giàn nhạc Đông Sơn thì chức năng của chúng phải là dụng cụ âm nhạc tạo tiết tấu và những giai điệu.

Có thể người xưa dùng 1 giàn cồng chiêng nhiều kích cỡ và âm thanh khác nhau như người Tây Nguyên ngày nay để tạo âm thanh đa dạng.

Một nhạc cụ thuộc bộ gõ phổ biến nữa là chuông nhạc, khắc họa trên trống đồng với hình người đang gõ lắc chuông to trong đoàn người múa trên mặt trống. Hiện vật khảo cổ rất nhiều loại chuông, vô cùng phong phú.

Chuông lớn mà người ta gọi là chuông voi như chuông Mật Sơn dài 31, 5cm, rộng miệng 25, 5cm tạo âm thanh vui tai.

Những chuông để lắc có hình thức không khác chuông để gõ nhưng kích thước không kém.

Chuông có then ngang treo quả lắc, lắc rung đệm tiết tấu cho những điệu múa.

Những chuông nhỏ còn gọi nhạc đồng hay lục lạc không có quả lắc mà thường đeo vào những đồ đồng (vòng ống, khuyên tai, xà tích, thắt lưng)

Chuông loại này tạo những âm thanh khi rung chạm với nhau và với đồ đồng gắn vào, nó phục vụ cho những điệu nhảy múa.

Ngoài chuông đồng còn loại chuông làm từ những nguyên liệu không bền vững như gỗ, tre nứa mà có thể mang dạng gần giống mõ, dùng đệm cho giàn nhạc.

Căn cứ những hình khắc trên trống đồng có thể giàn nhạc Đông Sơn còn tồn tại loại nhạc cụ là sênh, phách.

Một số hình vũ công múa cầm trên tay một vật giống cây gậy ngắn, có thể giống nhạc cụ gọi là "hương mậy" của dân tộc Xá (Nguyễn Hữu Thu và Lê Văn Lan 1974).

Nhạc cụ này là ống nứa chặt vát một đầu, phần tay cầm dùi lỗ nhỏ điều chỉnh âm thanh. Trên trống đồng còn có hình ảnh người múa cầm chiếc phách, đó là 2 đoạn giống gậy nhỏ, ngắn.

Việc múa cầm phách được người Việt dùng trong các nghệ thuật biểu diễn dân gian. Nhưng sênh phách có lẽ bằng tre nứa nên dễ mục nát nên khảo cổ vẫn chưa có bằng chứng.

Khèn là loại nhạc cụ bộ hơi chắc chắn có mặt trong Văn hóa Đông Sơn thể hiện qua hình khắc họa nhiều trên trống đồng và những tượng người thổi khèn trên cán mui đồng Việt Khê, tượng người cõng nhau thổi khèn Đông Sơn. Thường là khèn 4 hoặc 6 ống dài, cắm trong quả bầu.

Lĩnh biểu lục dị:

"Người Giao Chỉ thường lấy quả bầu không cuống, cắm 13 cái ống vào, trên đầu ống óc gắn 13 đồng mỏng làm lưỡi gà để thổi."

Không những người Việt mà các dân tộc như Mèo, Thái, Mường và dân Tây Nguyên đều sử dụng khèn trong ngày hội.

Có thể suy đoán trong số nhạc cụ thuốc bộ hơi thời Đông Sơn còn nhiều loại khác như sáo, tù và, khèn lá, sâu kèn.. hay các loại đàn ống như tơ-rưng làm bằng tre trúc, đàn đá, đàn đất.. nhưng vì dễ bị hủy hoại nên tài liệu khảo cổ học không có.

Thanh nhạc có lẽ cũng phát triển vì trên mặt trống đồng có khắc hình nam nữ hát đối đáp. Trong nhà sàn mái cong có đôi nam nữa ngồi đối diện, tay và chân giao nhau. Bên cạnh lại có người đánh trống giữ nhịp. Tục hát đối đáp này gọi "cái hoa kết hoa" khi hát sẽ vòng tay, vòng chân vào nhau.

Lối hát này còn gọi Lý Liên (Rí Ren) thể hiện một số tín ngưỡng phồn thực, giao hòa Âm Dương. Có thể trong những cuộc đua thuyền sẽ xuất hiện những điệu hò cổ vũ người đua..

Đặc điểm âm nhạc Đông Sơn là phát triển bộ gõ, nổi bật là trống đồng. Bộ gõ làm nền cho các điệu múa, điệu khèn. Tiết tấu tiết điệu vô cùng phong phú và đa dạng.

Dịp hội hè cùng lúc sử dụng nhiều loại nhạc cụ tạo thành giàn nhạc chứ ít dùng đơn lẻ từng nhạc cụ. Điều này phản ảnh trên hình khắc trống đồng, thể hiện phối khí tài tình của cư dân đông sơn.

Xác định nhịp theo âm nhạc dựa hình khắc trên trống là không thể làm được, có thể dựa một số tài liệu cổ liên quan. Sách "Đả cổ lục" ghi chép cách đánh trống ngày xưa minh họa bằng bốn câu thơ.

Đi chiến đấu

Đi chiến đấu

Không diệt được giặc

Không thèm sống

Đoạn thơ theo nhịp 1/2. Thực tế cho thấy nhịp 1/2 được sử dụng phổ biến trong âm nhạc dân gian ta, hiếm thấy nhịp phức tạp như 3/4 hay 5/4..

Nguyên tắc quán triệt trong bố cục những hình khắc trên trống đồng là tính đối xứng "đối xứng từng cặp và đối xứng vòng tròn", quy định nghệ thuật Lạc Việt ưu tiên sử dụng số chẵn (số chẵn của những cánh sao, những hình chim trong vành) tức những bội số của 2, điều này có lẽ liên quan đến cách tính nhịp trong âm nhạc.

Nghệ thuật không gian (bố cục mặt bằng) thấy nghệ nhân hứng thú với tiết tấu nhịp nhàng trong những bố cục cân xứng cặp đôi, trong nghệ thuật thời gian hẳn năng khiếu thẩm mỹ này sẽ tái hiện.

Xuất phát từ đây chúng tôi cho rằng nhạc và múa của người Lạc Việt trình diễn theo nhịp 1/2. Đây cũng là nhịp giã gạo chày tay, nhịp tát nước của cư dân nông nghiệp Lạc Việt.

Nhảy múa

Đội múa trong hình khắc trên mặt trống đồng là tốp người múa theo hàng dọc, đi theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, người nọ nối người kia vừa đi vừa hát thành vòng tròn. Những người múa thường được phục trang bằng những bộ quần áo lộng lẫy nhất:

Áo hai vạt dài, áo lông chim cao hoặc mặt nạ, họ đôi khi cầm vũ khí.

Mỗi tốp múa 3-4 hoặc 6-7 người. Vài tốp có người thổi khèn số còn lại biểu hiện theo động tác thống nhất, chuyển động từ trái sang phải, người sau nối tiếp người trước một khoảng đều đặn, tất cả diễu hành vòng quanh ngôi sao ký hiệu cho mặt trời.

Xét hình dáng bề ngoài đội hình nhảy múa, thấy nghệ thuật nhảy múa của người Lạc Việt gắn bó chặt chẽ âm nhạc (khèn và trống) nói về cách biểu hiện có thể tồn tại những quy cách, những động tác tư thế, những tuyến chuyển động quy định rõ. Động tác nói chung còn đơn giản.

Đặc biệt bàn tay thể hiện động tác múa cách điệu, xòe rộng tạo hình chữ V to quá cỡ so với người mà Heger gọi là bàn tay cầm thoa, hoặc cầm phách.

Động tác múa này giải thích rõ nếu ta so sánh với hình người nhảy múa trên rìu Đông Sơn và ở các tượng tròn trong Văn hóa Điền (Vân Nam).

Đó là tượng người múa tay xòe, cổ tay đeo vòng ống tròn như cầm sênh phách.

Dùng tay, nhất là bàn tay để diễn đạt ngôn ngữ múa là đặc trưng nghệ thuật múa các dân tộc ở Việt Nam nói chung. Đội hình múa, đạo cụ còn gặp ở các dân tộc Tây Nguyên nay.

Con người ra khỏi giới động vật thì bàn tay là công cụ thần diệu để thực hiện những sáng tạo của bộ óc. Do đó những nền văn minh tối cổ nhân loại, bàn tay được phủ lên những quan niệm thần bí. Người ta xem nó như nơi chứa những phép tắc nhiệm màu.

Đội hình múa mọi người đều hóa trang lông chim và nhại những động tác chim bay, gọi là điệu vũ chim bay.

Vòng ống đeo ở cổ tay, cổ chân trang trí hoa văn đẹp và đeo thêm lục lạc độc đáo. Có người cho đây là loại bao tay, bao chân trong khi chiến đấu tuy nhiên kiểu trang sức này không thể thuận lợi khi lâm trận.

Nó phải là kiểu nhạc cụ phụ kèm khi vũ công nhảy múa ngày lễ hội tạo âm thanh cùng giàn nhạc cho điệu múa thêm rộn ràng, thậm chí thăng hoa mang tính huyền bí tôn giáo.

Nghệ thuật tạo hình

Nghệ thuật những hình khắc trên trống đồng cổ là thành tựu xuất sắc nhất lĩnh vực tạo hình của người Lạc Việt.

Nền nghệ thuật này liên quan những quan niệm tôn giáo, nó chứa đựng những nét sống thực, thể hiện quan hệ con người với thế giới xung quanh.

Nghệ thuật này cho thấy con người chiếm vị trí trung tâm miêu tả thế giới khắc quan, xuất hiện trong hoạt động tập thể:

Đội hình múa, lễ hiến tế trong cảnh đua thuyền ngày hội, diễn tấu trống khèn, giã gạo bên mái nhà..

Mỗi cảnh mang ý nghĩa riêng, như những yếu tố cơ bản, kết hợp nhau, sắp xếp trong bố cục vòng tròn. Từ bố cục này toát lên đề tài chung nói về lễ hội nước, lễ hội mùa.

Nghệ thuật trống đồng độc đáo đặc trưng bởi nghệ thuật khắc chạm trên khuôn, tạo những hình ảnh khắc chìm chủ yếu trên mặt các trống phong phú, thân trống thì hình khắc hơi nổi.

Tất cả hình ảnh và hoa văn thể hiện bằng những hình ngang dọc cắt nhau, không gian giữa chúng toát ra những đường nét sâu lõm của hình ảnh tạo trên khuôn đúc.

Nghệ nhân xây dựng hình ảnh trong những bố cục tròn trên mặt trống và ô chữ nhật trên thân trống, bên trong hai loại bố cục này hình ảnh sắp xếp rất cân đối. Nét đặc sắc nghệ thuật biểu hiện này là hình ảnh con người diễn tả theo tư thế động.

Về bố cục, tất cả hình ảnh diễu hành vòng tròn quanh ngôi sao giữa mặt trống. Cảm giác nhà mái cong đứng giữa những hình chuyển động cũng bị cuốn vào, cũng di chuyển.

Tả cảnh động là điều thường thấy trong các nền nghệ thuật nguyên thủy. Với người thời cổ, chỉ những hình ảnh sinh hoạt tập thể như lễ hội, săn bắt, đánh cá, đua thuyền mới gợi cảm xúc thẩm mỹ.

Truyền đạt những hình ảnh động, nghệ sĩ vận dụng nguyên tắc tạo hình "kiểu Ai Cập". Ví dụ tốp người múa trên mặt trống thể hiện theo lối:

Ngực hướng thẳng về phía khán giả, đầu và chân theo lối nhìn nghiêng. Hình chim bay thì thân cánh và đuôi nhìn từ trên xuống, đầu nhìn nghiêng.

Nguyên tắc này rất ổn định, thành phong cách mẫu mực truyền đạt hầu hết hình người múa, vũ sĩ và hình chim bay trên các trống đồng Đông Sơn từ sớm nhất đến muộn nhất.

Phong cách tả độc đáo này là các nhìn hiện vật từ nhiều vị trí trong không gian, xuất hiện ở hầu hết các nền nghệ thuật cổ Ai Cập, Lưỡng Hà.. ở đây thế giới trong tranh thể hiện như không gian khép kín.

Truyền đạt hình ảnh, nghệ nhân có cái nhìn sâu sắc, chỉ chú ý những điểm nổi bật của đối tượng miêu tả, tạo những hình ảnh chính xác tinh tế bằng những đường nét đơn giản.

Ví dụ tả hươu nhấn mạnh vào đôi sừng, phân biệt dễ nói với loài vật khác. Nguyên tắc này vận dụng để tả những hình cá sấu, chim bay, vũ sĩ, người múa.

Nhìn một vật, không phải là sao chép nguyên si đối tượng mà phải nắm những đặc tính cơ bản, nắm cái thần của đối tượng, nhờ đó cảm nhận hiệu quả hơn. Nghệ nhân Lạc Việt đã đặc tả tới cách nhìn khái quát.

Nhấn mạnh những đặc tính của đối tượng miêu tả là thuộc tính nguyên tắc cách điệu trong nghệ thuật.

Quan sát những hình người, thu hút nhất là mũ cao ngất, áo dài lê thê, đặc biệt ở những người múa là bàn tay xòe rộng dài quá cỡ.

Những vật này không thể dùng trong thực tế mà phải liên quan tín ngưỡng, dùng những dịp đặc biệt. Dụng cụ tín ngưỡng thường cải tạo theo quy tắc tôn giáo.

Tức những dụng cụ ấy cách điệu một phần, cách điệu thêm một phần nữa qua nghệ thuật tạo hình vũ sĩ và vũ công trên trống đồng trong trang phục tôn giáo, nhấn mạnh đặc điểm tôn giáo tạo cách điệu hóa cao độ.

Hình ảnh cách điệu theo thời gian dần chuyển thành những họa tiết hoa văn hình học. Đây là đặc điểm nổi bật trong đồ đồng Việt Nam.

Một số hình ảnh tả rất sơ lược, không quan tâm tỷ lệ hiện vật.

Ví dụ chim trên nóc nhà mái cong dài gần bằng chiều dài nóc nhà, nhà thể hiện dưới dạng nhìn thẳng một bên mái (không thấy 2 đầu hồi nhà), mái úp sát tận sàn, nhưng có thể hình sau mái để thấy người trong nhà.

Nghệ nhân tả hiện vật không theo cách nhìn trực tiếp, mà nhìn qua lăng kính còn rất gần gũi với tự nhiên.

Nghệ thuật Lạc Việt đôi khi gặp những dấu hiệu hình ảnh biểu trưng.

Ví dụ hình lông chim trên đầu người biểu trưng cho mũ hình chim, đầu chim gắn vào mũ tượng trưng hình chim, hoa văn vòng tròn chấm giữ biểu tượng cho mắt động vật.

Người Lạc Việt tồn tại định lý về hình thức là "bộ phận thay cho toàn thể" xuất phát từ nguyên lý "trừu tượng hóa một cách tiết kiệm."

Người cổ đại thường hướng tới truyền đạt lượng thông bác tối đa bằng lượng tín hiệu tối thiểu.

Nghệ thuật trống đồng phát triển rực rỡ từ giữa và nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất TCN ở miền Bắc Việt Nam nay, tồn tại đến khi Phật giáo xác lập ở vùng này.

Thời kỳ phát triển rực rỡ, nghệ thuật Lạc Việt ảnh hưởng đến nghệ thuật các dân tộc láng giềng, trước hết là miền thượng lưu sông Dương Tử, đặc biệt là nước cổ đại.

Những hiện vật trong khu mộ táng núi Thạch Trại (Tấn Ninh-Vân Nam-Trung Quốc) có 17 trống đồng kiểu Đông Sơn.

Một số hiện vật khác thấy tả những đề tài quen thuộc như cảnh giết trâu, lễ hiến tế, giàn trống, nhà sàn.

Những hình ảnh như vũ sĩ bắn cung, giã gạo chày tay, nhà sàn mái dô về phía trước trên nóc có 2 chim đậu thấy được vẽ trên vách núi thuộc vùng Thương Nguyên tỉnh Vân Nam.

Nghệ thuật Lạc Việt cổ đại là nền nghệ thuật trẻ tuổi so thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể trong đó nó tồn tại.

Tuy nhiên chỉ so sánh nền nghệ thuật này với nghệ thuật những dân tộc cùng trình độ phát triển về xã hội, mới hiểu hết giá trị và đánh giá đúng mức những đóng góp độc đáo vào kho tàng văn hóa nhân loại.

Link

Khơi nguồn sáng tạo từ nghệ thuật Đông Sơn

Trung tâm Nghệ thuật Việt, 42 Yết Kiêu, Hà Nội đang triển lãm Nghệ thuật Đông Sơn, giới thiệu các bản rập hoa văn, cùng nhiều hiện vật thời kỳ văn hóa này như vải, sơn then, bộ dụng cụ và khuôn đúc trống đồng, bộ gốm lễ nghi bình tuyến Hoabinhian và Phùng Nguyên..

Ngoài những bản rập hoa văn các loại (20 - 25 mặt trống đồng, 20 phần tang và thân trống, 10 thạp, 5 tấm che ngực, 10 qua, dao găm, rìu), triển lãm còn giới thiệu bản rập tượng phục chế cảnh sinh hoạt dân thời Đông Sơn.

Hình ảnh các công cụ sản xuất bằng đá, dao găm đồng, quầy trưng bày công cụ đá, gốm từ bộ sưu tập của Ts. Nguyễn Việt và từ Bảo tàng Phạm Huy Thông (thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á) khiến người xem có cảm tưởng nền Văn hóa Đông Sơn tàn lụi trên 2000 năm trở nên sống động, gần gũi hơn. Bản rập đồ tùy táng mộ thuyền là những hé mở đời sống tâm linh người dân thời văn hóa vốn còn nhiều bí ẩn này..

Mỹ thuật Đông Sơn là thời huy hoàng nhất giai đoạn mỹ thuật tiền sơ sử Việt Nam và Đông Nam Á. Từ cuối TK. XIX đầu TK. XX, các học giả người Pháp đặc biệt quan tâm sáng tạo mỹ thuật của chủ nhân Văn hóa Đông Sơn.

Đến khi lập Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 1968, nghiên cứu mỹ thuật Đông Sơn mới được chú trọng khoa học và có hệ thống.

2003, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á dưới chủ trì của Ts. Nguyễn Việt tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu chuyên sâu về mỹ thuật tiền sử Việt Nam và kết quả được công bố trên tạp chí Mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam.

Những nghiên cứu về hoa văn trống đồng, trong đó có cảnh hổ săn hươu và người săn hổ cho thấy người Việt cổ tôn thờ sức mạnh vô song loài vật này.

Đối với cư dân nông nghiệp, hổ không còn là đối tượng săn bắt lấy thịt nữa mà thành con vật huyền thoại đáng tôn thờ. Tượng đôi thể hiện hai nữ quý tộc công kênh nhau trang trí trên cán dao găm Đông Sơn được cho hình ảnh về hai nhân vật lịch sử thời Đông Sơn, chị em sinh đôi Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Các nghệ nhân thời Đông Sơn có những ràng buộc mang tính quy chuẩn trong chế tác đồng thể hiện trên hình hoa văn mặt trống và tang trống hay cán dao găm..

Nói về "đặc sản" trống đồng Đông Sơn, GS sử học Lê Văn Lan trên quan điểm người tham quan triển lãm cho biết, thực ra trống đồng là mô hình vũ trụ theo quan niệm của người xưa với trung tâm là mặt trời, xung quanh là thiên nhiên sông nước và cuộc sống sinh hoạt của con người thời tiền sử.

Truyền thống nghệ thuật Đông Sơn rất đáng tự hào. Nó nên là nguồn cảm hứng cho sáng tạo nghệ thuật, nhất là lĩnh vực mỹ thuật.

Cùng quan niệm này, Ts Nguyễn Việt cho biết, sắp tới ông sẽ tổ chức thi sáng tạo nghệ thuật lấy cảm hứng từ nghệ thuật thời Đông Sơn để khích lệ những người làm nghệ thuật trẻ tuổi hướng về truyền thống mỹ thuật của dân tộc.

Triển lãm mang ý nghĩa "tiếp lửa" cho lòng tự hào và niềm mến yêu nghệ thuật dân tộc, đặc biệt là nghệ thuật Đông Sơn.

Cuộc phát động giải thưởng Tình yêu dành cho Mỹ thuật Đông Sơn dành cho sinh viên trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam do Quỹ Phạm Huy Thông (Pham Huy Thong Foundation) khởi xướng chiều 28-9.

TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



Hữu Vi

Web daibieunhandan