TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 12 của 12 Đầu tiênĐầu tiên ... 2101112
Kết quả 56 đến 59 của 59

Chủ đề: Nghiệp

  1. #56
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 20: Vigor

    Quả pháo sâm bay tới đáp xuống đất, ngay sau lưng con quỷ, nhưng nó thì chẳng màng. Ít giây sau thì dây mồi cháy hết, quả pháo phát nổ, tiếng nổ to như sấm đánh bên tai, bắn hàng trăm mảnh vỡ sắc nhọn ra khắp, đồng thời tạo ra một uy lực khủng khiếp, lập tức thổi cả hai gã to thân nặng xác bay xa mấy sải, đáp mỗi kẻ mỗi góc rồi lăn mấy vòng trên nền đất.

    Zoller tai ù, óc choáng, mình mẩy đau đớn, nhận thức về thế giới trở nên mơ hồ, nằm đó ngẩn ngơ như kẻ thiểu năng trí tuệ. May mắn là tình trạng của cậu không đến nỗi chí mạng, sau ít phút thì cậu lấy lại nhận thức, kê tay gắng gượng ngồi dậy, tựa lưng vào gốc cây thở dồn dập, nhìn về phía con quỷ. Cậu nửa kinh hãi bởi cú nổ, nửa mừng rơn khi thấy con quỷ nằm bất động. Phen này thì nó chết chắc, cậu tin thế.

    Ấy nhưng cái xác cồng kềnh ấy chợt cựa quậy, cất tiếng rền rĩ đau đớn, nhỏ bé như tiếng rít gọi tình của dế, nhưng như là tiếng sấm tai ương giáng bên tai Zoller. Rồi con quỷ chợt chống tay nhổm người dậy, thở một hơi dài như hơi xả lò than, tay ôm lấy mặt như thể vẫn còn chưa tỉnh cơn mông mê. Nó ngoái cổ nhìn về phía Naioben, gầm gừ vẻ cay cú và căm tức lắm. Nó đã phải lĩnh trọn sức công phá của cú nổ, phần giáp lưng hông cắm chi chít mảnh kim loại sắc, nom như chưa thể xuyên qua giáp được dù có là bán phần. Nếu mảnh sắc không làm gì được nó thì cũng là áp lực nổ làm nó thương tích, không phải là kiểu thương tích nhìn thấy được bằng mắt, mà là kiểu thương tích của cơ thịt bị bầm dập, xương cốt bị gãy và phủ tạng bị tàn phá. Thế mà, nó vẫn sống, vẫn đủ sức dựng dậy, vẫn tồn tại cơn thịnh nộ không nguôi và cái dã tâm cuồng sát không ngừng thôi thúc nó trườn tới chỗ Zoller.

    Zoller hốt hoảng nhìn quanh hòng tìm kiếm vũ khí, nhưng chẳng thấy đâu. Cậu nghĩ tới khả năng sẽ đối phó với nó bằng cơ thịt. Còn nó hơn cậu ở chỗ có móng vuốt và răng hàm sắc nhọn, thế thì nó có khác gì gấu? Chưa kể là ánh sáng chỗ Kazmaier cũng đang yếu dần. Cậu bấu víu lấy thân cây trơn ướt, gượng đứng thẳng lên. Con quỷ cũng kê chân đứng lên chậm rãi, mất ít giây là nó lại đứng vững, rồi lê từng bước xiêu vẹo tiến tới, ánh mắt không hiện một chút khoan nhượng.

    Zoller thầm nghĩ phen này chết chắc. Đáng ganh tị cho những kẻ lĩnh phải lưỡi rìu của con quỷ để nhận một cái chết chóng vánh, bởi cậu sẽ bị ăn tươi nuốt sống, bị moi ruột gan trong cơn dãy dụa, mà chỉ còn mấy sải nữa thôi. Bỗng nhiên từ đâu có viên đá bay vào đầu con quỷ phát tiếng cốp rõ to, làm nó chúi nhủi. Con quỷ giận điên quay lại thì thấy Vigor đứng đó, trên tay là quả pháo sấm và mồi lửa.

    “Mày biết đây là cái gì đúng không?” Vigor nói, vẻ mặt nhăn nhó. “Ta không biết liệu mày có hiểu tiếng người, nhưng mày chắc chắn biết đây là cái gì. Phải, mày biết nó là cái gì, cẩn thận từng bước của mày. Giờ thì,” Vigor chợt quát to, “tránh xa thằng nhóc ra! Có nghe ta nói gì không? Đồ cứt đái! Tránh xa thằng nhóc ra!”

    Con quỷ khom người nhích từng bước thận trọng, tiến về phía Vigor một cách thăm dò, vừa múa tay vừa nói chậm rãi như thể nó muốn truyền tải thông điệp. Nhưng Vigor thì chẳng hiểu quỷ ngữ, và cái giọng khàn đặc của giống quỷ thì nghe lúc nào cũng hệt như lời nguyền rủa thật cay độc. Thế thì Vigor chẳng thể nào tin nổi nếu con quỷ lại có thành ý hòa hoãn, “Đứng im ở đó! Ở đó là được rồi.”

    Con quỷ phớt lờ lời cảnh báo, vẫn cứ vừa luyên thuyên vừa sáp tới. Vigor bén rút ống lửa, thế nhưng, ống lửa bị thối, tắt ngúm. “Ô mẹ kiếp…” Vigor thốt không nên câu. Mẹ cái thằng già khốn nạn! Muốn lừa ta tự sát thì cũng phải lừa đến nơi đến chốn.

    Con quỷ ngầm hiểu, bật cười thành tiếng, ra vẻ hả hê lắm. Nó tự tin sải bước dài hơn, các ngón tay co thả như thể là đang định bụng tóm ngay lấy Vigor rồi bẻ cổ như bẻ cổ gà. Giờ thì tới lượt Vigor hốt hoảng. Cậu lúng túng ném viên pháo sấm vô dụng như ném một viên đá về phía con quỷ. Con quỷ thì chẳng thèm né, nó cứ xấn tới. Vigor bèn rút dao ra thủ thế, mà ngoài dao ra thì cậu còn có gì cơ chứ, bỏ chạy lúc này với vết thương còn rỉ máu càng chẳng giúp gì hơn. “Judem fya! Judem fya! Lão ta đã nói như vậy đúng không? Hả? Lại đây đi đồ súc sinh!” Vigor la to khiêu khích. “Judem fya! Lại đây với bố già đi con trai. Phải! Lại đây! Judem fya…”

    Bị chọc tức, con quỷ gầm lên lao tới. Khi ngón tay nó sắp chạm vào Vigor thì từ đằng sau Zoller đã lao tới, vác đá đập vào đầu nó, làm nó quỵ xuống ngay tức khắc. Zoller tiếp tục đập liên tiếp nhiều cú, cho tới khi con quỷ đã nằm gục thì cậu chợt dừng lại, thở hổn hển trong một chốc, rồi lại đập tiếp. Cả tới khi hộp sọ đã vỡ nát, máu văng tung tóe, óc phọt bầy nhầy thì cậu ta vẫn không ngừng đập.

    “Này… dừng lại được rồi…” Vigor thều thào can ngăn. “Nó đã chết rồi… chết thật rồi.”

    Zoller hiện ra cứ mải miết đập, như chẳng nghe thấy gì.

    “Được rồi…” Vigor chợt quỵ xuống, rồi ngã lưng ra đất, mặt mũi đờ đẫn, mắt nhìn vô định lên trên cao. “Phải rồi. Cứ làm đi. Thích làm gì thì làm đi… Lạnh… Lạnh quá…”

    ~~~~~~

    Nơi nào đó xa về hướng Đông, Satchel đương mò mẫm tìm đường thoát và nghe thấy hai tiếng nổ vang tới, một nhỏ một to, và cậu tức thì hình dung được gì có thể đã xảy ra, nhưng kết quả thì cậu chịu: ai sống, ai chết, và ai tật nguyền. Mắt cậu dán tới màn đêm phía trước, nhưng tâm trí cậu thì neo lại nơi bí ẩn đằng sau. Nếu như con quỷ còn sống thì sao? Thì cậu hiển nhiên phải chạy. Nhưng nhỡ đâu nó đã chết, và đồng đội của cậu đang bị trọng thương? Thì cậu phải quay lại chứ, nhưng mà, nhỡ con quỷ sống…? Cứ nghĩ tới số phận mỗi bên là đầu óc cậu như bị xoắn lại thành một mớ bùi nhùi nặng trĩu.

    Có điều, mệnh lệnh vẫn là mệnh lệnh. Giả như cậu quay trở lại và nhận ra Naioben vẫn còn sống, kiểu gì cậu cũng bị khép tội bất tuân. Cuối cùng thì cậu chẳng có lựa chọn nào khác ngoài giữ cho cái thân toàn mạng trở về. Thế rồi cậu cứ chạy, chạy như không biết rằng đang có bóng dáng bí ẩn đang bám theo, và chạy cho tới khi bị kẻ nào đó ngáng chân ngã chúi nhủi ra đất! Chân cẳng đau điếng làm cậu không bật dậy ngay được, cậu liền trở mình, vung dao đe dọa.

    “Đừng sợ! Phe ta cả,” kẻ ngáng chân bí ẩn lên tiếng. Hắn thắp một ngọn nến để chiếu rọi bản thân, hiện ra là một kẻ trung niên để râu quai nón và đội mũi trùm che khuất trán, “Tôi là Quạ Đen.”

    “Quạ Đen? Quạ Đen? Vậy còn chim én?” Satchel liền hỏi.

    “Én sẽ đến khi trưa cuối cùng của mùa hạ. Hãy theo tôi. Địch đã phát giác và giăng mai phục đón lõng, cả trước lẫn sau. Không tin thì người cứ chạy đi. Tôi gặp được người thì chúng cũng tóm được người. Cứ cho là đôi chân của người đêm nay đi được thật xa, thì sáng hôm sau ngựa của chúng sẽ đuổi kịp. Tin tôi đi, tôi sẽ chỉ người lối thoát.”

    Satchel chợt hạ lưỡi dao xuống, cũng như là thừa nhận cậu không còn cách nào khác hơn là tin tưởng kẻ xa lạ, “Nói đi, ta phải làm gì?”

    Quạ Đen liền dập ngọn nến, bước tới nắm tay Satchel rồi dựng người cậu dậy. “Kẻ thù đang bám theo sau lưng người, không phải lũ quỷ. Chúng sớm sẽ đến. Hai ta thì chẳng đủ sức địch lại. Thế nên người phải diễn với ta một màn lừa bịp che mắt chúng. Người hãy vờ là đã hàng phục, ta sẽ trói tay người và dẫn giải người đi. Đi tới nơi nào đó tai mắt chúng không chạm được tới thì ta sẽ chỉ người lối thoát.”

    “Làm thế nào mà chúng tin ngươi được?”

    “Người cứ tin ta như chúng đã tin ta. Công lao gầy dựng lốt ngụy tạo của ta bấy lâu nay chẳng phải là vô nghĩa đâu.”

    Satchel đành đưa tay cho Quạ Đen trói ngược. Nghĩ xem, nếu Quạ Đen kia là địch đang lừa bịp, thì việc gì hắn phải nhọc công lừa bịp khi hắn thừa sức đánh gục cậu lúc này? Mà hơn hết, là hắn đã đáp đúng mật khẩu.

    “Có kẻ đang đến!” Satchel khẽ cảnh báo.

    “Cứ để hắn đến. Người hãy quỳ xuống một lát.” Quạ Đen nói với Vigor xong thì liền quát to, “Trời thì tối mà rừng thì rộng, đừng có dồn quân lại một chỗ.”

    “Người là…?” từ trong bóng đêm kẻ thứ ba cất tiếng hỏi.

    “Hiện hình đi rồi hẵng nhìn mặt ta,” Quạ Đen đáp.

    Kẻ thứ ba chợt thắp một ngọn đuốc nhỏ, vén bức màn tăm tối che phủ ba gã loài người. “Là ngài. Ngài đã bắt được hắn ư? Ngài sẽ cần tôi phụ giúp chứ?”

    “Đừng lắm lời. Ta xử trí được kẻ này. Ai cũng nghe thấy tiếng sấm rồi đấy. Hãy đi lùng những kẻ còn lại.”

    “Tôi đi làm ngay. Nhưng tôi có điều này cần báo với ngài, về những kẻ còn lại. Chúng…” kẻ thứ ba vừa nói vừa tiến lại gần.

    “Có chuyện gì sao?”

    “Đó là—” kẻ thứ ba bước tới thêm một bước thì ngay lập tức Satchel liền nhận ra kẻ này là Maril! Những tên gián điệp và đồng thời là lực lượng phản gián! Satchel toan la lên nhưng không kịp, kẻ Maril kia đã vùng tới dúi cả ngọn đuốc nóng bỏng vào mặt Quạ Đen, làm hắn ta giật mình ngã ngửa. Sau đó thì gã Maril lao tới đè Quạ Đen xuống, rút kim nhọn đâm liên tiếp vào cổ họng, không cho hắn một cơ may trở tay hay la lên.

    Satchel kinh hãi, liền vùng lên bỏ chạy. Được mấy bước thì cậu bị một viên đá to ném thẳng vào lưng, ngã gục và quằn quại. Với cả hai tay bị trói thì tự đứng dậy được còn khó chứ đừng mơ màng gì tới phản kháng, cậu vừa nhổm dậy một chút thì gã Maril đã lao tới ấn vai đè xuống, đưa lưỡi dao cắt dây trói.

    Satchel ngạc nhiên không thốt nên lời. Cậu nhìn y dè chừng, nấn ná trong một lúc rồi mới cất tiếng, “Ngươi—”

    “Quạ Đen chết rồi,” gã chợt nói.

    “Hử?”

    “ ‘Hử’?” Gã im lặng trong một lúc, rồi chợt thở dài. “Kẻ này không phải Quạ Đen. Kẻ này đã lừa giết Quạ Đen, như cái cách gã lừa ngươi. Hắn là Natulnaju, cánh tay phải Ansel, chỉ huy quân Chủ Thị ở Kulm.”

    Có chuyện này sao? Satchel thầm nghĩ. “Vậy còn chim én?”

    “Ta đã giết Cú Mèo.”

    “Cái gì?” Satchel thốt lên.

    “Cấm quân là cấm quân, Maril là Maril, chúng ta có tôn chỉ hành động độc lập. Nhưng mục tiêu cuối cùng là phải hoàn thành nhiệm vụ. Kẻ danh xưng Cú Mèo kia chết vì chểnh mảng tư tưởng, địch hay ta không tường minh. Làm thám báo hay muốn săn lùng bọn ta thì phải biết lựa nơi lựa lúc.”

    “Vậy ngươi thờ ai?”

    “Chạy đi!”

    “Hả?”

    “Chạy đi. Ở đây không còn việc của ngươi nữa. Hãy chạy đi, hãy về kể cho người khác biết là Tây Chạn đã tha chết cho một tên Đông Chạn,” hắn nói bằng giọng đay nghiến. “Hãy kể rằng các ngươi chẳng được tích sự gì ở đây cả! Chạy đi! Hãy để họ biết là các ngươi thảm hại đến nhường nào! Chạy đi!”

    “Nhưng… nhưng…”

    “Chạy!” gã quát, xấn tới.

    Satchel liền quay người bỏ chạy không chần chừ, cũng không một giây tọc mạch ngoảnh mặt lại nhìn.

    ~~~~~~

    ‘Truyền thuyết về Kỵ Sĩ Sắt. (Iron Horseman)

    Trước kia, khi mà lủ quỷ kéo quân ồ ạt đến trước kinh thành Tarbas khiêu chiến, vua Constantan của Tarbas đã dẫn dắt các vị vua và chiến binh ra nghênh đón. Một trận đánh long trời lở đất đã nổ ra. Các chiến binh của chúng ta đã chiến đấu anh dũng, kiên cường cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Nhưng vì lũ quỷ quá đông và hung ác, chúng đã vượt qua được Cổng Vàng và tràn vào thành. Đức vua và quân tướng của người phải rút về cố thủ trong cung điện.

    Lúc đó, mọi niềm hi vọng đều tiêu tan, cuốn sách định mệnh của loài người sẽ phải viết trang cuối tại đây. Nhà vua khấn xin Đức Tagia mở lượng biển rộng, cho con dân của người một lối để đi. Khi ấy, người lính trên tháp cao nhìn thấy từ miền đất phương Nam có một đốm sáng kì lạ đang lớn dần. Về sau họ mới biết đốm sáng đó đang tiến lại gần Tarbas, và dần dần hiện ra là một hình bóng kỵ sĩ.

    Đó chính là Kỵ Sĩ Sắt. Ngài mặc giáp sắt, đội mũ sắt, cưỡi ngựa sắt, nắm gậy sắt. Toàn thân ngài sáng lên như sắt nung đỏ. Con ngựa của ngài sáng lên như sắt nung đỏ. Gậy của ngài sáng lên như sắt nung đỏ.

    Ngài cưỡi ngựa lao thẳng vào quân đoàn quỷ dữ, húc bay mọi kẻ chướng ngại, nghiền nát chúng dưới vó ngựa nặng ngàn cân. Ngài vụt gậy sắt nóng bỏng, vụt một gậy là tơi tả giáp trụ, vụt hai gậy là tan xương nát thịt, vụt ba gậy là hồn phi phách tán, vụt sang trái rồi vụt bên phải, vụt một cái là đánh bay cả chục tên. Ngựa của ngài biết lồng lên phun ra ngọn lửa nóng như dung nham, hễ phun ra là chục tên chết cháy, giáp phục vũ khí đều tan chảy thành suối.

    Ngài phi ngựa đảo quanh mấy vòng, trong chốc lát đã đánh cho tan tác quân thù. Ngài theo bước quân nhà trời, đuổi đánh chúng về tận hang ổ.

    Sau chiến thắng vang dội đó thì ngài liền trở về với Tagia toàn năng.

    —Heh’ran ký trình’

    ~~~Ngày mười lăm tháng Mười Hai~~~


    Vigor chợt tỉnh giấc khỏi cơn mê mộng mị, nghĩ về những giấc mơ kì quái, để rồi ít giây sau lại quên mất mình đã mơ thấy gì. Cậu thấy mình đang nằm trên một chiếc giường gỗ, ở trong một căn phòng đá tối tăm được chiếu sáng yếu ớt bởi một ngọn đuốc giắt tường. Căn phòng trống trơn không có mấy vật dụng, mà phòng cũng không có cửa sổ, nên cậu không thể đoán được đây là thời điểm nào trong ngày. Mà cũng vì không có cửa sổ nên cậu cảm thấy ngột ngạt, nóng bức, khát nước, mà thậm chí là ngửi rõ mùi khói cháy.

    Cậu có cảm tưởng rằng mình đang ở dưới một hầm ngục nào đó. Bên phải của cậu là cánh cửa phòng, cánh cửa không có khóa. Cậu chăm chăm nhìn cánh cửa trong một lúc, nghĩ tới việc sẽ tiến tới mở và bước qua cánh cửa đó, tưởng tượng rằng cậu có siêu năng lực làm cánh cửa đó mở ra và cho cậu thấy đằng sau có gì.

    Rồi cánh cửa tự mở ra thật, và xuất hiện đằng sau đó là Satchel.

    “Tạ ơn trời đất và thánh thần, anh đã tỉnh dậy!” Satchel thốt lên hồ hởi.

    “Satchel?” Vigor nói thều thào. “Đây là đâu?”

    “Nơi đây? Đây là Địa Ngục! Chào mừng anh lần đầu tới Địa Ngục!”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ---QC---


  2. #57
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 8: Phương Bắc

    Đoạn 1: Người đưa tin

    ~~~Tỉnh trấn Fein Hafer, Nam Telnum, ngày mười bốn tháng Mười~~~

    Frenen chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đi thật xa lên phương Bắc lạnh lẽo và trống vắng. Nếu không phải vì những manh mối hay vì mệnh lệnh thì cậu sẽ để cơn gió lạnh thổi trôi cả người lẫn ngựa về phương Nam ấm áp. Đích đến của cậu chỉ mới ở phía Nam Telnum thôi, chứ mà nếu đi xa hơn nữa về hướng Bắc thì cậu chỉ biết tặc lưỡi ngán ngẩm.

    Thị trấn Fein Hafer, nơi cư trú của hơn ba nghìn nhân khẩu, nằm gọn trên một ngọn đồi đá, bao quanh là một bức tường thành đóng cọc nhọn. Xung quanh thành là tuyết trắng chỉ mới phủ, đủ mỏng để thấy lưa thưa ngọn cỏ xanh. Frenen tới ngay chân cổng thành thì bị lính gác chặn hỏi. Họ dò xét qua loa rồi để cậu đi khi biết cậu đến từ Tarbas. Cậu cũng không mấy bỡ ngỡ vì vốn biết dân Tarbas lui tới Telnum như đi chợ. Hơn nữa, Tarbas là nguồn sống chính của cả Telnum trong suốt hơn ba thập kỉ qua, tức là từ cái thời lũ quỷ tràn tới và tàn phá một lúc Gardin và Halatan. Người dân nơi đây chẳng thể dựa vào mỗi gia súc để sống hết kiếp, sắt thép thì càng không ăn được.

    “Có phải ngài đến để mua sắt?” một cư dân của trấn lao tới trước chắn đường Frenen. Hắn quấn khăn trùm đầu kín mít, chỉ để lộ đôi mắt lanh lợi. “Chúng tôi có hàng thép tốt nhất, chất cả kho, giá cả phải chăng nhất vùng!”

    Frenen lắc đầu không đáp.

    “Ồ, vậy nếu ngài không tìm kiếm cái gì đó thì cũng đang tìm kiếm ai đó, tôi nói phải chứ? Hay tôi xin mạo muội đoán chừng ngài là một du hiệp thích lang bạt đây đó đang cần tìm một chỗ trú thân? Hay cơ thể đàn bà để ủ ấm qua đêm lạnh giá?”

    “Lãnh binh Bronn?” Frenen hỏi.

    “Ngài lãnh binh không có trong thành lúc này. Nếu ngài tới phủ lãnh binh thì cũng phải đứng chờ bên ngoài. Chi bằng ngài hãy kiếm một nơi nào ấm áp trú chân, và trả công tôi một đồng bạc, tôi sẽ chờ và báo tin lại cho ngài.”

    Mấy gã lính gác cổng cũng nói y hệt. “Một đồng bạc là cái giá cắt cổ.”

    “Trời rất lạnh. Chí ít tôi sẽ dò hỏi xem khi nào ngài lãnh binh trở về, sẽ không đắt công lắm đâu.”

    Nếu như trước kia một tháng lương bổng của Frenen được mười đồng bạc, thì cậu thà tự đi hỏi lấy. Nhưng giờ trọng trách mới đem lại cho cậu một nguồn công tác phí dư dả, một đồng bạc chẳng đáng là mấy, thế nhưng cậu vẫn chưa quen với việc mình đang thừa tiền. Frenen tung cho một đồng bạc và gã kia nhanh như cắt tóm lấy, rồi đưa lên săm soi như phòng hờ bạc giả. “Tôi là Teufer, có thể gọi là Teu cũng được. Xin được biết quý danh quý tánh của ngài du hiệp!”

    “Hadim, hãy chuyển lời tới ngài Bronn là Hadim ở Đồn V đến tìm ngài. Ngươi sẽ được một đồng bạc nữa ngay khi ta gặp ngài. Ta sẽ chờ ở khách điếm (inn) đằng kia.”

    “Được thôi. Ngài hãy cẩn trọng khi giao tiếp với bất kỳ ai, bởi chúng sẽ tìm cách lường gạt ngài,” Teufer dặn dò rồi biến mất sau những con hẻm nhỏ.

    Phần Frenen thì đang lạnh run, bụng thì nhanh đói, trong đầu chẳng nghĩ tới gì hơn khác một không gian ấm cúng ngập tràn ánh nến vàng và một bát súp nóng. Khách điếm ở đây cũng hệt như ở Đồn V, cũng cái ngột ngạt khói nến, cũng nồng nặc mùi hôi chua cơ thể, cũng mấy gã đàn ông râu ria xồm xoàm ngồi tụm lại vừa nốc bia vừa cãi vã. Vẫn một bầu không khí thân thuộc ở nơi xa lạ. Sau khi quan sát thoáng qua thì cậu lặng lẽ tiến tới ngồi nơi bàn cái (bar).

    “Tôi có thể phục vụ gì cho cậu đây?” người chủ quán đứng sau bàn cái mở lời chào mời. Đó là một người đàn ông đứng tuổi hói đầu, râu ria dày rậm, thân hình rắn rỏi, tác phong cẩn trọng, giọng điệu lạnh tanh. Tường chính sau lưng ông ta thay vì treo thủ cấp hươu hay gấu hay sói thì lại gắn một tấm khiên gỗ trầy tróc cùng với hai thanh rìu đan chéo, trông thật phô trương.

    Frenen không cảm nhận được chút nhiệt thành nào từ người chủ quán, cũng như phát giác ý nghĩ mờ ám nào đó, giống như người này đang dè chừng thì hơn. “Tôi không biết một đồng bạc có thể mua được gì?” cậu đặt đồng bạc xuống và đẩy về phía ông ta.

    “Nhiều thứ đấy.”

    “Đủ cho một vại bia, một bát súp nóng, một vài lời khuyên, và một thái độ cởi mở chứ?”

    “Không đủ cho thứ cuối,” ông ta nói rồi quay lưng vào trong bếp. Ít phút sau ông ta trở ra với một mâm đựng bát súp nóng bốc hơi nghi ngút và ba khoanh bánh mì nóng giòn. Ông ta tiếp đó tới chỗ thùng bia ủ và rót một vại bia đầy, rồi đặt hết tất cả ở chỗ Frenen.

    “Không tệ cho một đồng bạc.”

    “Ngài đã nói gì với thằng ma cô kia vậy?” ông chủ hỏi.

    “Thằng ma cô? Ý ông là Teufer?”

    “Cứ mỗi ngày là hắn lại có thêm một cái tên mới. Hắn sẽ trở về trước khi trời tối và dẫn cậu tới một chỗ khuất, nơi đồng bọn hắn chờ sẵn không phải để đơn thuần là trấn lột, mà là để giết cướp của,” ông ta khẽ nói, giọng đều như bước.

    “Vậy là tôi không phải là con mồi đầu tiên của hắn,” Frenen nhướng mày. “Còn hắn thì vẫn còn nhởn nhơ, nơi này thật đáng sợ.”

    “Thời kỳ gian khó. Đời còn khó thì người còn gian,” ông chủ vừa nói vừa lau mấy cái vại.

    “Và ông không ngại động chạm tới miếng ăn của chúng?” Frenen đánh mắt về phía cặp rìu và khiên treo trên tường.

    “Đã bước vào đây thì chỉ có hai hạng người, hoặc là kiếm ăn hoặc là kiếm chuyện (either get eat or get beat). Đôi khi chúng nó ăn uống say sưa trước rồi gây chuyện sau. Quán nhỏ này sẵn sàng phục vụ cả hai.”

    “Làm sao để tôi mướn được một kẻ ăn được làm được?”

    “Tùy thuộc cậu nhờ hắn ta làm gì.”

    “Tôi muốn gặp ngài lãnh binh Bronn.”

    “Cậu gặp ngài ấy là có công chuyện gì?”

    “Đó là việc cá nhân.”

    “Vậy thì hãy giữ chuyện cá nhân đó cho riêng cậu,” ông ta nói rồi tránh xa ra chỗ khác.

    Frenen ngầm hiểu là ông ta không chỉ muốn moi tiền mà còn muốn moi móc thêm nhiều thứ khác. Và đó là điều kiện để lão làm việc cho cậu. Tình hình thời tiết hiện tại khó để vội vàng, nên cậu quyết định sẽ dành ra một khoảng thời gian để tự lần mò ra mọi thứ.

    Đúng như lời chủ quán nói, trời vừa nhá nhem là gã Teufer tìm đến quán, ghé vài tai Frenen thì thầm, “Tôi đã tìm thấy ngài lãnh binh, hãy theo tôi ngay.”

    “Cám ơn cậu, chàng trai,” Frenen gật đầu vẻ trân trọng, “nghĩ lại thì ta không cần phải vội làm gì. Ta đang rất mệt và cần nghỉ ngơi. Mọi thứ ta sẽ quyết định vào sáng mai.”

    Teufer chợt ngước nhìn chằm chằm nơi lão chủ quán, còn lão thì phớt lờ hắn, như thể lão chỉ bận tậm tới việc kiếm ăn của lão. Hắn hiểu ra mọi chuyện. “Ồ, được thôi, được thôi…” hắn lẩm bẩm rồi quay lưng rời đi.

    “Hắn có thể làm gì được ông chứ?” Frenen hỏi chủ quán.

    “Mùa này chúng chỉ có ném đá cửa sổ, mùa hè thì chúng mới ném dầu đất được.”

    “Ở đây có dầu đất sao?”

    “Có chứ, chỉ có Tarbas mới đào ra thứ đấy. Dễ cháy hơn than, cháy mạnh hơn than, không dập được bằng nước, tiền nhẹ hơn than. Khỏi phải lo, tôi biết phải tìm hắn ở đâu. Nếu cậu không sợ quán tôi bị đốt đêm nay thì trên kia có phòng vừa dọn sạch sẽ.”

    “Tôi có một tin muốn báo trực tiếp cho ngài lãnh binh,” Frenen nói.

    “Đó là loại tin gì vậy?”

    “Tin báo tử.”

    “Của ai?”

    “Một người thân thiết của ngài ấy. Tôi muốn phòng có cửa sổ.”

    ~~~~~~

    Nửa đêm, kẻ gian đạp tung cửa phòng của Frenen, xấn tới chỗ giường lật tung tấm chăn để rồi trố mắt trước cái giường trống không. Frenen lúc này trốn sau cánh cửa liền chạy tới xô hắn ta thật mạnh về phía cửa sổ gương, làm khung cửa vỡ tan từng mảnh, còn hắn thì lăn dài trên mái hiên rồi rơi xuống đất. Ngay sau đó thì cũng có kẻ làm lại trò tương tự với Frenen, làm cậu cũng lăn trên mái rồi rơi xuống đất.

    Bên ngoài trời vẫn rít gió, tuyết rơi dày, đường phố thì vắng lặng, tối mù. Nền đất thì xốp tuyết nên Frenen chẳng thấy đau mấy. Cậu liền nhanh chóng đứng vững trên hai chân để đấu tay đôi quyền thuật với kẻ mà cậu xô ngã. Ít giây sau thì kẻ xô cậu cũng nhảy xuống tham chiến. Không ngần ngại, cậu rút kiếm chém tạt ngang một đường thật mạnh để hất chúng ra, cảnh báo chúng về một vòng cung lãnh địa nếu xâm phạm thì sẽ bị mũi kiếm rờ tới. Hai gã liền rút kiếm ngắn ra thủ thế, rồi đứng chờ đợi điều gì đó.

    Và điều mà chúng chờ đợi là tên thứ ba từ trong khách điếm chạy ra, hội đủ ba tên thì ba mặt giáp công con mồi. Frenen không thể cho chúng cơ hội ấy được, cậu liền lao chạm trán với một tên hòng mở đường máu. Những kẻ này hiện ra biết võ nghệ, biết tấn thủ nhịp nhàng, tuy nhiên chúng lại chậm hơn Frenen một nhịp, bởi cậu là người chết trở về từ bóng tối, bóng tối trở thành sân chơi của cậu. Rồi như thế trong đêm thanh vắng chợt có âm thanh kim loại leng keng chát chúa vang lên liên hồi ở một góc phố. Được một lúc thì từ phía bên kia cửa chính của khách điếm vang lên tiếng cửa gương vỡ nát.

    “Mẹ kiếp!” một giọng nói từ trong bóng tối phát ra. “Là đám con hoang Asseiger!”

    Rồi ngay sau đó cũng từ nơi sảnh chính của khách điếm sáng lên ánh lửa vàng nhảy múa.

    “Chúng nó phóng hỏa! Quân bay mau đi dập lửa, hãy để hắn lại cho ta,” giọng nói đó ra lệnh, rồi dần dần diện mạo bí ẩn của kẻ này bị ngọn lửa đang cháy mỗi lúc một to phơi bày. Hắn chính là tay chủ quán.

    Ba tên thủ hạ rời đi, để lại Frenen đối diện với lão chủ trong tay rìu và khiên. Frenen không nghĩ mình sẽ chạy thoát, bởi giày của cậu không phù hợp đi tuyết, cậu phải nghĩ ra kế đối phó. Nhưng lão chủ không cho cậu thời gian làm điều đó, hắn lao tới đánh phủ đầu. Nhát rìu uy lực bất ngờ của lão khiến Frenen phải khụy xuống. Lão nhanh như chớp dùng khiên tạt ngang làm cậu phải né gấp, và bị mất thăng bằng. Cuối cùng lão tung ngay một cú đạp vào ngực làm cậu ngã ngửa, rồi lao tới đá mạnh một cú nữa trúng hàm làm cậu bất tỉnh.

    ~~~~~~

    Frenen bị đánh thức khỏi cơn mê bằng một xô nước lạnh cóng, thấy mình bị trói đứng trên giá chữ thập ở trong một hầm ngục, hàm thì đau ê ẩm. Đôi mắt mông muội của cậu nhìn thấy lờ mờ phía trước bóng dáng của một võ sĩ lực lưỡng.

    Cánh cửa sắt duy nhất của hầm ngục chợt mở ra và lão chủ quán bước vào, theo sau là một người đàn ông khác cũng đứng tuổi.

    “Chính là hắn, thưa đầu lĩnh,” lão chủ nói. “Tôi chắc chắn hắn cũng là một tên tay sai khác.”

    “Để ta hỏi hắn vài điều trước,” kẻ đầu lĩnh nói.

    Trớ trêu thay hàm của Frenen cứng đờ, cậu không tài nào mở miệng được, cho dù chỉ là bập bẹ.

    “Ngươi là ai? Ngươi từ đâu đến? Ai phái ngươi đến đây?” kẻ đầu lĩnh hỏi Frenen.

    “Ha… Ha…”

    “Harkenbauer!” lão chủ la lên. “Ta biết mà, không ai khác ngoài hắn!”

    “Harkenbauer mà ta biết không sơ suất như này,” kẻ đầu lĩnh nói.

    “…di…!”

    “Cái gì!” kẻ đầu lĩnh thốt lên sửng sốt. “Hadim? Sao lại là Hadim? Nó cử ngươi tới sao? Hay là có chuyện gì với nó? Chết tiệt hàm của hắn sưng to quá, mau thả hắn xuống, mau lấy đá lạnh tới chườm! Hãy tỉnh lại đi, ta chính là Bronn đây!”

    Đám thủ hạ hốt hoảng làm theo lời Bronn. Họ để cho Frenen nghỉ ngơi thật lâu, cho tới khi cậu cơ bản là động đậy cái hàm được, đôi mắt thì nhìn được tỏ tường. Lúc đó thì cánh cửa sắt cũng lại mở ra, hai võ sĩ khác lôi theo xộc xệch một gã khác, dường như hắn vừa bị đánh cho tơi tả. Frenen liền nhận ra ngay đó là gã xưng Teufer.

    “Khốn kiếp! Ta không thể chịu đựng được nữa!” lão chủ lao tới nhấc bổng Teufer lên trời, rồi ném cực lực vào tường. “Ta sẽ chặt đầu hết tất cả bọn chúng!”

    Bronn lặng lẽ nắm lấy một vốc tuyết rồi đặt lên cái đầu hói của lão chủ, và nói, “Kaurf, hãy nghĩ là anh đang đứng sau bàn cái. Đúng vậy, đằng sau bàn cái. Lúc này ta cần Kaurf của bàn cái, điềm tĩnh quan sát và khôn ngoan nắm thóp đám du thủ du thực ở bàn con.”

    Bronn chợt quay sang nhìn Frenen và thấy cậu đang cố nói điều gì đó, liền ghé lại gần.

    “Hadim… là đội trưởng…” Frenen gượng nói.

    “Vậy cậu là thuộc cấp của nó. Nó đã gặp chuyện gì?”

    “Hy sinh…”

    “Ôi lạy tổ phụ tổ mẫu!” Bronn bàng hoàng khi nghe tin dữ. “Làm sao?”

    “Chiến trận… quỷ…”

    “Bao lâu rồi?”

    “Hai tháng…”

    “Ở đâu cơ chứ?”

    “Pirab…”

    “Chao ôi thật khủng khiếp, sự thật có lẽ nào lại như vậy, ta đã luôn nơm nớp lo sợ có ngày này!” Bronn thốt lên đau đớn. “Ta không còn mặt mũi nào gặp anh Maxim ở thế giới của Vudai nữa, thậm chí ta còn không dám tiết lộ điều này với vợ ta. Thật thất lễ khi cậu đã nhọc công đi xa để báo ta hung tin mà chúng ta lại bạc đãi cậu thế này, ta thậm chí còn chưa biết tên của cậu. Giờ tạm thời hãy nghỉ ngơi đi. Chúng bay mau lập tức chuẩn bị giường êm chăn ấm, gọi thầy thuốc đến ngay cho ta!”

    ~~~Fein Hafer, ngày mười lăm tháng Mười~~~

    Cái hàm của Frenen sau một đêm đắp thuốc đã bớt sưng, không còn ê ẩm nữa. Cậu được phục vụ bữa sáng tận giường, uống sữa nóng, rồi lại nằm nghỉ ngơi. Tới chiều, ngài Bronn và Kaurf lại viếng thăm. Frenen tự giới thiệu bản thân rồi kể lại cho bọn họ đầu đuôi mọi chuyện, và lý do chính để cậu phải tìm đến Fein Hafer. Kaurf tỏ ra ngờ vực.

    “Ông là một Lanterbreiner phải không?” Frenen hỏi Kaurf.

    “Sao cậu nghĩ vậy?”

    “Vì cái cách ông vung rìu.”

    “Điều đó không chứng minh được gì.”

    “Râu của Fuhren dài hai mươi phân.”

    Kaurf chợt nhướng mày, “Thắt hai nốt hay ba nốt?”

    “Không thắt nốt nào.”

    “Đo từ khi nào?”

    “Con trăng tròn tháng trước.”

    Đôi mắt Kaurf liền sáng lên, nhưng sau đó lại nhanh chóng sụp xuống vì hối hận. “Hãy thứ lỗi cho ta, ta ước là mình biết cậu là bạn của Fuhren sớm hơn. Tại sao cậu không báo ngay cho ta biết trước? Ta thề có các Halla’dram rằng ta sẽ chặt tay để tạ lỗi nếu cậu muốn! Vì cậu nói đến tìm ngài lãnh binh nên ta đã nghĩ cậu là sát thủ được phái đến. Nhưng rồi cậu nói đến việc truyền hung tin về thân nhân của ngài, ta lại tin rằng cậu được kẻ thù của ngài phái đến để đe dọa. Do đó ta nghĩ tới việc bắt giữ cậu để bắt cậu khai ra kẻ thủ ác ấy. Hãy thứ lỗi cho tính hồ đồ, nông cạn của ta.”

    “Tôi dự định không tìm gặp được ngài Bronn sớm thì sẽ đi hỏi về Kaurf, bạn của Fuhren,” Frenen nói. “Lão già Fuhren lại chẳng đề cập gì tới chuyện một chiến binh như ngài lại là chủ của một khách điếm.”

    “Một chiến binh khó chết bởi gươm đao nhưng dễ chết bởi thuốc độc. Khách đến tiệm tôi đều là chiến hữu.”

    “Vậy trận lửa đêm qua sao rồi?”

    “Không sao hết. Chúng ta vẫn ở đây đấy thôi. Chúng tôi đã tóm được bọn chúng, lũ Asseiger, rặt một đám thanh niên lưng dài vai rộng nhưng chỉ thích lừa lọc để sống nhàn hạ. Chúng tôn sùng Leukem, chúng là nỗi sĩ nhục của trai tráng Telnum. Tôi sẽ trừng trị chúng thích đáng.”

    “Thật phức tạp. Nhưng thôi hãy gạt qua bên.” Frenen quay sang Bronn, “Thế lực nào lại có thể khiến một vị lãnh binh uy quyền như ngài phải trốn chui trốn nhủi?”

    “Đó là một câu chuyện dài và phức tạp hơn nữa, con trai,” Bronn đáp. “Ta sẽ bắt đầu từ thời trước khi lũ quỷ xuất hiện, lũ mà cậu vừa gọi là Kwi. Như lúc này, dòng dõi Huyền Vương ở Telnum vẫn giữ được hoàng vị giống như ở Tarbas, có điều sách lược của các bậc tiên vương là khác ngược. Nếu như tiên vương Harkan của Tarbas ban hành sắc lệnh cứng rắn, thâu tóm binh quyền, thì tiên vương Lorom của Telnum lại san sẻ quyền lực cho hai đại thần thân tín lúc bấy giờ. Đó là tướng Lanterbreiner và tổng chưởng lý Leukem. Đó là tiền đề để hình thành hai đảng phái đối lập lớn nhất ở Telnum, Lanterbreiner và Leukem.

    “Hai đảng đối nghịch nhau như chính Đông Chạn và Tây Chạn. Sự đối nghịch của hai đảng không chỉ ở mục tiêu tranh giành quyền lực và lực ảnh hưởng tới hoàng gia, mà còn khác biệt hoàn toàn ở tư tưởng hình thành. Lanterbreiner vận hành bằng võ lực, nhưng đối nhân xử thế bằng đạo nghĩa ngàn đời, trọng nghĩa trọng tín, cốt cách là tinh hoa truyền thống của chiến binh. Leukem vận hành bằng kim tiền, trọng kẻ sang khinh kẻ bần hàn, thờ hạng gian trá diệt bậc hiền lương, bản chất là một lũ con buôn vị kỷ không có lấy một chút tự trọng!

    “Lanterbreiner hướng đến duy trì trật tự bằng sức mạnh tuyệt đối, nên được hoàng gia Tarbas hậu thuẫn về mặt chính trị. Leukem thì hướng đến duy trì trật tự bằng tiềm lực khí tài, nên được hoàng gia Tarbas hậu thuẫn về mặt kinh tế. Tuy nhiên vì thiên tính gian hùng, Leukem không được tín nhiệm sánh như nhà Lanterbreiner.

    “Cả hai đã từng đối nghịch nhau nhưng không đến mức là thù nghịch, đơn giản là vì không động chạm miếng ăn. Lanterbreiner ngoài hưởng bổng lộc của hoàng gia thì còn là một tập đoàn võ sĩ bán sức lực để kiếm ăn, trong khi đó Leukem là hội nghiệp thương, chỉ biết giao thương mua bán và đóng thuế. Nghe thì giống như cả hai nước sông không phạm nước giếng, nhưng thực ra hai bên đã có một giai đoạn liên hiệp chặc chẽ. Đó là vào thời kỳ giặc cướp hoành hành, thương đoàn thường xuyên bị cướp cạn, nhà Leukem chịu không thấu mới thuê quân chúng ta làm bảo tiêu, làm hộ vệ, đôi bên đều được lợi. Thời gian thay đổi thời thế, liên hiệp được hai mươi năm thì Leukem tuyệt giao với Lanterbreiner.

    “Ở xứ sở lạnh giá này hơn hai mươi năm, ta chưa bao giờ thấy quỷ mò tới dù chỉ một lần, đến nỗi ta đã quên mất chúng xấu xí tới nhường nào. Nhưng dù chúng có mò tới thật, thì đối phó với chúng vẫn còn dễ chán so với con người. Con người quỷ quyệt, khó lường hơn những gì cậu đã trải nghiệm. Khi ta chân ước chân ráo đến đây, ta chỉ đem theo một lòng nhiệt huyết diệt quỷ cứu dân, nhưng nhiệt huyết thôi thì không đủ để đứng vững một thân một mình ở nơi xa lạ chứ đừng mơ tưởng gì đến việc leo lên chức vụ lãnh binh. Nhà Lanterbreiner coi trọng lòng thành phụng sự và kinh nghiệm diệt quỷ nên mới đứng ra hậu thuẫn cho ta suốt thời gian qua.

    “Mà cái gì cũng có giá của nó. Ta bị cuốn vào cuộc chiến chính trị nơi đây, cuốn chặc đến mức ta thèm khát được nhìn thấy quỷ! Nhìn xem, đôi tay ta vẫn còn rắn chắc, đường kiếm của ta vẫn còn sắc sảo, giác quan của ta vẫn còn tinh tường, ý chí sát quỷ phục thù của ta vẫn còn rực cháy dữ dội khi ta nghe tin dữ của Hadim. Ta ước chỉ một lần thôi được lao vào tắm máu với chúng, để cho phép ta một phút lơ là khỏi những mưu ma chước quỷ mỗi ngày một chút biến tướng, lộng hành.

    “Khi hai nhà còn qua lại, hàng hóa của Leukem là do chúng ta hộ tống, và hầu hết đều hướng về Tarbas. Năm năm đổ lại, hai nhà không còn can hệ gì nữa, hàng hóa của Leukem không còn về Tarbas nữa, mà đi sâu hơn về phía Nam, ta tò mò liệu nơi tàn tích ấy có ai đang âm thầm gầy dựng lại cơ đồ, nếu đó không phải là quân Chủ Thị mà cậu vừa kể. Leukem là thương hội lớn, nhưng không phải là duy nhất. Telnum còn có nhiều bang hội nhỏ khác và chịu ảnh hưởng bởi Lanterbreiner, họ vẫn giữ mối làm ăn mật thiết với Tarbas. Tuy nhiên lần lượt từng nhà bị mê hoặc bởi tiền vàng của Leukem, chấp nhận để chúng thâu tóm cơ đồ. Mà chúng ta chỉ biết bất lực đứng nhìn.

    “Mà cũng thời điểm đó mâu thuẫn giữa hai đảng leo thang, khi ta nhận được tin báo về nhiều cái chết của dũng sĩ nhà Lanterbreiner ở khắp nơi. Họ đều không chết trong chiến đấu mà bởi cạm bẫy, là bắt cóc, là thuốc độc, là mai phục, là đàn bà! Chẳng ai tin là quân Leukem lại có gan làm chuyện ấy, thế nhưng đó chắc chắn là chúng. Khoan hãy căm giận chúng mà hãy trách chúng ta đã quá lơ là, chúng ta đã quá đơn giản. Chúng ta đã cảnh giác hơn trước rất nhiều, nhưng càng ngày lại có thêm nhiều dũng sĩ bị ám hại, trong đó có nhiều nhân vật là đại thần trong đảng.

    “Chúng ta từ lâu đã nung nấu ý định kéo quân đến đồ sát tận diệt cả thảy bang gia chúng nó. Nhưng hãy nghĩ đi, điều gì khiến chúng trở nên manh động đến thế? Phải chăng là một thế lực tàng quân nào đó đang ra sức chống đỡ? Liệu chúng có ngu si tới mức không giăng sẵn một cái bẫy tinh vi để dẫn dụ rồi hốt trọn kẻ thù? Liệu hoàng gia có ủng hộ hành vi của chúng ta, liệu hoàng gia có còn tín nhiệm lòng thành này? Hay hoàng gia sẽ quy kết đây là một cuộc binh biến hòng đảo chính? Tình huống tệ nhất là chúng ta không có bằng chứng tin cậy nào, chúng ta sẽ mất đi sự tín nhiệm của hoàng gia lẫn Tarbas. Gia tộc Lanterbreiner cũng sẽ sớm bị tan rã như đúng ý đồ gian trá của kẻ thù.”

    “Như tôi hiểu thì chúng đang dụ nhà Lanterbreiner lật bài tẩy và đánh tất tay trong ván cược cơ đồ,” Frenen nói.

    Bronn lôi ra một lưỡi dao dài và mảnh như kim khâu, “Quân Maril chính quy không có lý do gì để ám hại ta, ta tin như thế. Chỉ có thể là quân phản nghịch mà thôi (Rogue Maril). Ta đã thất bại trong việc bắt sống hắn.”

    “Thì ra đây là lý do chẳng ai biết được hành tung của một vị lãnh binh như ngài, người lý ra phải luôn hiện diện để điều quân khiển tướng.”

    “Như ta đã nói, ở đây không có quỷ để ta phải ra mặt, mọi sự liên quan trị an ta đều ủy quyền hết cho thân tín. Ta xin cậu hãy thứ cho thái độ của Kaurf, vì có kẻ đã tìm đến ta.”

    “Giờ nhà Lanterbreiner không có một phương kế đối phó nào sao?”

    “Chúng ta tìm kiếm sự ủng hộ từ Tarbas, nhưng dường như họ đang bận bịu với thứ gì khác và phớt lờ. Chúng ta phải tự lực cánh sinh. Con trai, giờ ta đang cầu xin cậu hãy giúp ta. Ta nguyện toàn tâm toàn lực tương trợ cho bất cứ lý do nào mà Tarbas gửi cậu tới đây. Đổi lại, cậu hãy gửi lời cầu xin của ta, ta sẵn sàng phạm thượng để đại diện cho cả gia tộc Lanterbreiner. Chúng ta cần một sự ủng hộ đủ lớn để khiến hoàng gia phải phớt lờ cho mọi hành động của chúng ta. Tarbas cần tài nguyên của Telnum, họ sẽ hiểu ra vấn đề. Chỉ cần một dấu hiệu chấp thuận thì chúng ta sẽ nhổ cỏ tận gốc bọn chúng chỉ trong một đêm! Cậu không chỉ đơn giản là đến gửi tin buồn, ta nói phải chứ?”

    “Tôi hiểu ý muốn của ngài. Kaurf, lấy giúp tôi cái túi da ở trên bàn. Xin cám ơn.” Frenen lấy ra từ trong túi một cái hộp gỗ, rồi lấy thứ bên trong đó ra đưa cho Bronn, “Thứ này ngài nhìn quen chứ?”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 25-04-2021 lúc 17:47.

  3. #58
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 8: Phương Bắc

    Đoạn 2: Người nhận tin

    ~~~Tỉnh trấn Austrum, Đông Telnum, ngày hai mươi lăm tháng Mười~~~

    “Không. Tôi không biết thứ này.”

    “Ngài đang chối,” Frenen nói. “Ngài Bronn chắc chắn như vậy.”

    “Tôi không biết Bronn nào cả. Nếu ngài không muốn mua bán gì thì xin đi khỏi bổn tiệm.”

    “Có, ngài biết Bronn và Bronn biết ngài. Ngài là Kohlen, là chồng của Lisa, là con rể ông ấy.”

    “Tôi không biết ngài đang nói gì. Nếu ngài không chịu rời đi thì tôi sẽ cho mời trị an!”

    “Lisa!” Frenen đứng giữa của tiệm sắt của Kohlen la lên. “Tiểu thư Lisa của ngài Bronn. Nếu nàng có nhà xin hãy cho tôi gặp! Tôi mang thư của ngài Bronn gửi đến.”

    Tức thì từ dưới gian bếp vọng lên giọng nói trong trẻo, rồi một người phụ nữ đưa mấy ngón tay mảnh dẻ vén vội bức rèm chắn giữa gian hàng và gian nhà sau, tiến ngay tới chỗ Frenen, cười rạng rỡ và hồ hởi chào hỏi, như thể nàng đang trông chờ điều này từ rất lâu lắm rồi.

    “Tiểu thư… ồ không, là phu nhân Lisa của ngài Kohlen,” Frenen nói. “Nàng xinh đẹp rạng ngời như những lời tán dương của lãnh binh Bronn. Tôi không những mang thư mà còn mang theo quà của cha nàng gửi cho các công chúa bé bỏng của ngài.”

    “Không thể tin nổi là chồng tôi không những không tiếp đãi ngài bằng trà bánh mà lại còn lớn tiếng xua đuổi. Xin hãy thứ cho người chồng thô lỗ của tôi,” Lisa đáp và có cái liếc nhìn dằn mặt dành cho Kohlen. Rồi nàng mời Frenen xuống gian sau, nơi có bàn ghế và nội thất sạch sẽ tươm tất, không hôi hám và bụi bặm như gian hàng phía trước.

    Frenen chân bước lên thảm lông gấu, đưa tay sưởi ấm trước lò lửa cháy tanh tách, ngồi tựa lưng trên ghế gỗ thông được bào nhẵn tay vịn, bàn tọa lót gối lông ngỗng vừa êm vừa ấm, trộm nghĩ, Ngôi nhà này giàu có hơn vẻ bề ngoài. Ít phút sau thì Lisa mang trà thảo mộc và bánh bơ nướng đựng trên khay sứ đắt tiền ra, đặt nhẹ lên bàn mời khách quý.

    “Xin đừng trách ngài Kohlen,” Frenen mở lời. “Ngay từ đầu tôi mới là người lỗ mãng, tôi đã ngờ ngợ là gõ cửa nhầm nhà, tuy nhiên, trộm nhìn qua lớp màn kia phát hiện một căn phòng tươm tất sạch sẽ, mùi thơm bốc lên nghi ngút ấm cúng, tôi tin chắc là có bóng dáng của một người phụ nữ hiền hậu đảm đang hiện diện ở đâu đây, rồi mới đánh liều gọi phu nhân. Nhưng thôi, hãy gạt chuyện đó sang một bên. Nhiệm vụ chính của tôi ở đây là giao tận tay phu nhân bức thư của ngài Bronn, còn đây là những món quà nhỏ của ngài dành cho cháu ngoại.

    “Xin phu nhân hãy thông cảm cho ngài lãnh binh, vì ham trọng trách mà lơ là cốt nhục tình thân, không thể cất công đi xa thăm phu nhân. Trà rất thơm và bánh rất ngon, tạ lòng hiếu khách của phu nhân, nhưng tôi nghĩ mình đã dùng đủ, giờ tôi xin phép không quấy rầy phu nhân đọc thư, hơn nữa tôi có chút chuyện làm ăn của những người đàn ông, phải trao đổi với ngài Kohlen.”

    Frenen không kể về chuyện của Hadim, bởi cậu tin rằng trong lá thư ngài Bronn chắc chắn sẽ đề cập tới chuyện đó. Cậu lịch sự cúi chào rồi đi lên gian nhà trước để gặp Kohlen, vẻ mặt hắn ta trông rất hậm hực.

    “Tôi tin là phu nhân chưa biết chuyện giữa Bronn và Harkenbauer,” Frenen nói.

    “Chuyện gì là chuyện gì? Tôi không biết gì cả. Vốn chẳng có chuyện gì cả,” Kohlen cáu kỉnh đáp.

    “Nếu như anh thực sự không biết thì sẽ chẳng có vấn đề gì to tát nếu tôi cho phu nhân biết, nhỉ?” Frenen nói rồi gọi to, “Lisa!”

    “Không được!” Kohlen ngăn cản.

    Từ gian nhà sau Lisa đáp lại rồi đi ra, trông thấy vẻ bối rối của Kohlen. Frenen liền nói, “Phiền phu nhân có thể mang một ít trà và bánh lên đây. Chúng tôi sẽ bàn chuyện một hồi lâu đấy, toàn chuyện làm ăn cả.”

    Lisa cười đáp rồi lại lui vào trong, không lâu sau thì đem ra trà và bánh, rồi nàng lại lui vào bếp.

    “Anh muốn gì?” Kohlen mặt hầm hầm.

    “Nghe anh tiết lộ những gì vừa chối bỏ.”

    Kohlen nhìn lảng đi chỗ khác, vẻ bồn chồn lo lắng, rồi mới đáp, “Đồng vàng Kromner, là của hoàng gia Din, Halatan.” Hắn vừa nói vừa chỉ vào những đường nét chạm khắc trên đồng vàng.

    “Anh biết nó, tức là nó từng xuất hiện ở đây. Bằng cách nào nó lưu lạc tới được nơi đây?”

    “Thiên hạ tin rằng toàn bộ vàng bạc châu báu trong bảo khố của hoàng gia Din biến mất cùng với lũ quỷ đen. Nhưng thực tế không phải, một số ít cá nhân, hoặc là thương buôn, hoặc là vương tộc quý tộc đã tháo chạy khỏi Halatan ngay trước khi xảy ra đại họa vong quốc, mang theo vô vàng của cải. Hiển nhiên là phải mang theo thứ này. Rồi chúng lưu hành đến khắp ngõ ngách…”

    “Một số ít cá nhân không thể vác theo cả quốc khố để rồi phân phát khắp được.”

    Kohlen phớt lờ Frenen, chợt đi ra đóng kín rèm cửa sổ, treo biển đóng tiệm rồi khóa trái cửa ra vào. Sau đó hắn quay trở lại sau quầy, và đáp, “Nghe này! Đừng dồn ép tôi! Tôi không muốn bị lôi kéo vào chuyện của các người, tôi không muốn đứng về phe nào, phái nào. Chúng tôi phải trốn tới tận đây để được yên ổn. Xin hãy tha cho chúng tôi! Tôi van xin đấy!”

    “Chiến tranh như quả bóng da bơm hơi căng cứng, nó sắp sửa nổ rồi. Càng chờ lâu thì nó càng nổ to. Tarbas, họ đánh hơi được mùi gì đó, họ muốn biết được điều gì đó. Không phải lời từ miệng anh thì cũng sẽ có kẻ khác thay thế. Quả bóng sẽ phải nổ, nếu anh muốn nó nổ sớm thì hãy biết phải nói gì ngay lúc này.”

    Kohlen liếm môi, nấn na trong một lúc lâu rồi mới nói, “Nên nhớ nếu có chuyện xảy ra với gia đình tôi thì có nghĩa là anh chọc vào cả Bronn lẫn Harkenbauer. Tôi và cô ấy yêu nhau chân thành, ngay trước cả khi biết chuyện của hai nhà Lanterbreiner và Leukem. Lần đầu tiên tôi gặp cha cô ấy, cũng như lần đầu tiên cô ấy ra mắt cha tôi, chúng tôi bị phản đối kịch liệt. Chúng tôi không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng chúng tôi quyết đấu tranh vì hạnh phúc của mình. Khi đó cả hai ông lão mới chịu phớt lờ cho một cuộc hôn nhân lén lút.”

    “Tôi cũng đã rất sửng sốt khi biết Bronn lại chịu đi làm thông gia với Harkenbauer.”

    “Đây không phải là hôn nhân chính trị. Bởi nó chẳng can giải được mâu thuẫn giữa hai lão già, nó đơn giản chỉ là một bản giao kèo không làm liên lụy đến đời con cháu mà thôi. Chúng tôi buộc phải rời bỏ quê nhà chuyển đi thật xa tới đây vì không muốn tận mắt chứng kiến hai nhà xâu xé nhau, cho dù bên nào thắng đi chăng nữa. Tôi yêu cô ấy thật lòng thật dạ.”

    “Tôi chứng thực điều đó. Không có tình yêu thì phu nhân không thể nổi giận với ngài được. Phu nhân quả thực là chưa biết chuyện gì cả, nếu có, thì nàng chắc chắn sẽ đứng về phía cha nàng. Cho tôi biết những gì anh biết và tôi sẽ biến đi thật nhanh. Hãy bắt đầu từ lại từ đồng vàng.”

    “Nhiều năm trước, các cửa tiệm chỉ nhận hiếm hoi vài đồng như thế này, nhiều người sau đó chỉ lưu giữ chúng như là thú vui sưu tầm hơn là tài sản lưu trữ hay dùng như tiền tệ. Những năm gần đây, chúng xuất hiện như hơn.”

    “Chúng dùng để đổi lấy thứ gì?” Frenen hỏi.

    “Sắt. Anh nghĩ ở đây chúng tôi có gì khác? Phần lớn là dùng để mua sắt.”

    “Ai hay dùng chúng để mua sắt?”

    “Cả trăm nhà buôn. Tôi không thể kể từng cái tên.”

    “Bắt đầu từ Chủ Thị thì sao?”

    “Vậy cuối cùng là anh đi theo những kẻ này. Chủ Thị không phải là một thương hội hay thương đoàn. Họ là một tổ chức lớn, nhưng lại ngầm, ẩn mình đằng sau nhiều cá thể hoạt động mậu dịch lớn nhỏ. Tôi tin rằng họ là điểm đầu của vàng và điểm cuối của sắt, tôi cá là anh đang nghi ngờ điều tương tự.”

    “Vậy còn Salta?”

    “Salta như là một quả núi ở Trung Lộ, ai cũng nhìn thấy được từ xa. Họ cũng đến đây vì sắt. Tôi nghe đồn gần đây là họ cơm không lành, canh không ngọt với Chủ Thị.”

    “Vị trí của nhà Leukem?”

    “Chúng tôi không theo ai cả, kể cả là Tarbas. Luật chơi thì chỉ có một và áp dụng cho tất cả—thuận mua vừa bán. Chúng tôi giao đủ sắt cho Tarbas theo hạn mức yêu cầu thường niên. Phần còn lại, chúng tôi có quyền bán cho bất kỳ ai có tiền, cho dù có là Lanterbreiner, Salta hay Chủ Thị. Leukem không hề liên đới gì tới mâu thuẫn giữa các bên. Nếu Tarbas có ý định chống lại Leukem, tôi buộc phải từ chối trả lời nhiều hơn.”

    “Như tôi đã nói rồi, đích nhắm của Tarbas là Chủ Thị. Chúng không phá luật của Telnum nhưng lại phá luật của Tarbas. Nếu anh hiểu cốt lõi câu chuyện rồi thì hãy trả lời tiếp. Cá nhân tôi tò mò điều gì khiến sắt của Telnum trở nên đặc biệt đến như vậy. Mỏ sắt thì ở đâu cũng có mà.”

    “Đúng là quặng sắt ở đâu cũng có và như nhau, nhưng kỹ thuật luyện thép của Telnum là số một và là bí mật. Hãy nhìn đây,” Kohlen nói rồi đi tới lấy ba thanh sắt mỏng treo trên giá tới đưa cho Frenen. “Đây là phôi thép dòng Ne, này là dòng Ju, còn này là Pa. Tay anh trông mạnh mẽ, hay đánh chúng thật mạnh vào cái đe sắt đằng kia.”

    Frenen làm theo lời Kohlen, lần lượt đánh thật mạnh từng cây sắt vào cái đe. Cả ba thanh sắt đều lần lượt biến dạng.

    “Cả ba thanh phôi thép đều là dòng thép dân dụng hay còn gọi là gang, nhìn xem, chúng giòn, đều nứt hết cả,” Kohlen vừa nói vừa đưa tay chỉ. “Ne là tệ nhất, nứt nhiều nhất, trong khi Pa là tốt nhất, nứt ít nhất.”

    Kohlen tiếp đó đi mở tủ cửa gương, lấy ra một thanh thép khác đưa cho Frenen, rồi ra hiệu cho cậu làm điều tương tự. Lần này thanh thép không bị gãy, mà thay vào đó là rung nảy đàn hồi. Frenen trố mắt ngạc nhiên.

    “Này là thép Vivra, hay còn gọi là thép dẻo. Chúng được ưu tiên trong quân dụng vì thích hợp để rèn kiếm.”

    “Ra là thế, một thanh kiếm bị gãy trong giao đấu có nghĩa là chết. Nhưng nếu kiếm không đủ cứng thì làm sao cắt được mắt xích giáp lưới (chainmail)?”

    “Đó là một phần của kĩ nghệ rèn. Một thanh kiếm tốt thì lõi phải mềm và lưỡi phải cứng. Để làm được điều này thì lưỡi kiếm rèn từ thép dẻo sẽ phải trải qua một công đoạn gọi là—”

    “Đó là tôi thép!” Frenen thốt lên.

    “Có nhiều cách tôi thép, một cách thông dụng phổ biến là nhúng lưỡi kiếm nóng vào trong dầu. Thành quả là ta sẽ có một thanh kiếm đủ độ đàn hồi để không bị gãy ngang, vừa cứng để cắt xuyên áo giáp. Chuyện này anh nên hỏi thợ rèn Tarbas vì họ mới là giỏi nhất. Ở đây chúng tôi chỉ giỏi luyện thép.”

    “Tôi có thể tham quan một lò luyện chứ?”

    “Không, anh không được phép,” Kohlen phẩy tay. “Hơn nữa, anh không tìm thấy những lò luyện trong những vùng thành thị như thế này. Chúng nằm sâu trong lòng núi!”

    Frenen nhướng mày vẻ không tin.

    “Dãy núi giống như lưỡi kiếm vậy, ngoài thì băng tuyết lạnh giá, nhưng ẩn sâu bên trong là những dòng sông rực lửa!”

    “Chuyện này quá lố rồi. Con sông rực lửa?”

    “Đó là dòng dung nham chảy ngầm trong núi.”

    “Dung nham?”

    “Đó là thứ mà những kẻ đến từ đồng bằng không thể tin. Đó là dòng chảy tuôn ra từ trong lòng núi rồi biến mất vào trong lòng núi, tỏa ra sức nóng kinh hồn đủ để hóa ra tro bất cứ ai ngu dốt sảy chân ngã vào. Sắt thép gặp nó còn bị tan chảy nữa là. Đó là lý do họ chọn nơi đó làm chỗ luyện thép. Ở xứ sở lạnh giá này anh có đốt cả mảng rừng cũng không đủ cho ra một mẻ.

    “Ngoài ra những kẻ chân ướt chân ráo như anh sẽ không chịu nổi cái bầu không khí lúc nào cũng ngột ngạt, cay xè, không gian thì tối tăm ẩm ướt. Ở đó chỉ chứa chấp được những thành phần bất hảo, không chốn dung thân, những kẻ điên loạn và những kẻ sắp chết. Như tôi nghe đồn về Scarfenhast, một gã thợ rèn điên có tiếng trốn sâu trong hang động vùng núi cực Bắc, tự nhận tài năng vượt trội Ba Bùa huyền thoại, rằng gã đang rèn một thanh kiếm không bị rỉ bởi muối, không bị mẻ bởi đá, và không bị nung chảy bởi ngọn lửa phàm tục.”

    “Tôi thật sự tò mò muốn mục sở thị nơi đó. Nhưng mà thôi. Chủ Thị có lắm tiền, có khi nào chúng sở hữu một lò luyện không?”

    “Có lẽ là không, chuyện đó phải có sự chấp thuận của Leukem Chúa. Nhưng tôi nghe phong phanh chúng đang xây dựng một lò luyện ở đâu đó phía Nam, và đang lên kế hoạch tuyển mộ thợ luyện kim. Chúng không nung quặng bằng than hay củi, mà là bằng thứ dầu đất của Sa Mạc!”

    “Thế thì quá rõ ràng cho một cuộc chạy đua vũ trang!”

    “Tôi thừa biết điều đó. Tôi đã mua lại một mỏ sắt, đám phu Gardin thì rẻ mứa. Nếu cứ bán hàng cho mục đích quân dụng thì trước sau gì tôi cũng rước họa vào thân. Chi bằng tôi bán quặng sắt thô, còn ai muốn dùng nó làm gì thì mặc họ. Đó chính là tôn chỉ hoạt động của Leukem. Còn nữa, tôi khuyên anh đừng dây sâu vào bọn Lanterbreiner, một lũ cục súc hung bạo, vô nhân tính, dùng vũ lực để đàn áp lý lẽ. Anh có biết chúng đã làm gì thằng nhóc đám Asseiger không? Chúng cắt gân tay, gân chân, khoét mắt, đổ sáp nóng chảy vào tai, cắt lưỡi, thả kiến nọc vào người, rồi ném thằng nhóc ra ngoài đường. Như thế còn dã man hơn là hành quyết bằng ném đá. Đạo nghĩa gì cái ngữ ấy chứ! Nếu không phải vì Leukem chịu gian khổ dấn thân đi xa ngàn dặm để đem ngũ cốc từ phương xa về thì chúng sẽ ăn thịt chúng ta như quỷ dữ!”

    “Làm sao anh biết được chuyện đó?”

    “Tai mắt của chúng ở khắp nơi. Không phải Leukem, mà là Chủ Thị, tiếng thầm thì của chúng lan nhanh hơn vó ngựa. Thậm chí có khi chúng đang ở ngoài kia nghe lỏm chúng ta.”


    Frenen chợt giật mình ngoái đầu lại nhìn dò xét nơi bức tường cửa sổ.

    “Tôi đã nói hết tất cả những gì mình biết. Xin anh hãy để cho chúng tôi được yên ổn. Dù gì cũng đã mất công lặn lội đến đây, chi bằng anh hãy tìm đến khách điếm Toubkal ở ngoài trấn về phía Bắc. Ở đó có hồ tắm nước nóng tự nhiên, và cả đàn bà sẵn sàng trần truồng tắm cùng anh.”

    ~~~~~~

    Đâu đó nơi góc phố, bên ngoài tiệm sắt Kohlen, ẩn mình trong đoàn người qua lại ai ai cũng trùm đầu che mặt kín mít là hai bóng hình bước đi không va chạm với một ai.

    “Toubkal, gọi tất cả đến Toubkal, trước khi trời tối.”

    “Chúng ta còn thiếu hai người.”

    “Ai?”

    “Tân Binh và Họa Mi.”

    “Chúng ta không cần chờ một ả bất cẩn và một tên đần độn.”

    ~~~~~~

    Tại một lữ quán ở Austrum, một nhóm năm người đàn ông cao to mặt mũi bặm trợn đang ngồi tụm lại, chợt đồng loạt đứng lên chào đón năm người khác vào nhập bọn.

    “Toubkal, cả bọn đến Toubkal ngay. Ta đã đặt phòng cho mười người,” một kẻ mới đến nói. “Trang bị đầy đủ, không được sót thứ gì.”

    ~~~Toubkal, Austrum, Telnum, đêm hai mươi lăm tháng Mười~~~
    Frenen theo như lời gợi ý của Kohlen tìm đến khách điếm Toubkal. Cậu nhận phòng nhanh, xưng là kẻ vãng du, hỏi sơ qua về đặc sản địa phương, và dịch vụ tắm nước nóng. Cậu không hỏi gì tới phụ nữ nhưng mấy tên hầu trong quán đã nhanh nhảu mời chào, trơ trẽn xin tiền hoa hồng để giới thiệu cho cậu những cô đào xinh đẹp nhất.

    Tối khuya, hồ tắm nước nóng rộn ràng hơn thường. Ở đó họ có năm khu hồ tách biệt, một hồ lớn tắm chung và bốn hồ nhỏ cho ai có nhu cầu riêng tư. Các hồ đều được quây kín bằng tường đá, bên trong lợp ván gỗ, trên dựng mái ngói, dưới trải đá nhám chân. Một hành lang kín đáo được xây để nối gian nhà chính khách điếm tới từng khu hồ, khách trọ rồng rắn nhau theo con đường ấy để tới nơi thư giãn khoái lạc, Frenen cũng theo đó mà nhập cuộc.

    Đầu tiên cậu tiến vào khu hồ lớn, dưới ánh đuốc lờ mờ và xuyên qua làn hơi nước bốc lên nghi ngút, thoang thoảng mùi trứng thối, cậu đếm được ước chừng hơn ba mươi người đàn ông ở đó, đủ mọi tuổi tác. Ai cũng thế, không chỉ riêng cậu, tuân thủ một quy định của hồ tắm, đó là không mang theo gì khác hơn là một tấm khăn che thân. Cậu lặng lẽ tiến tới một góc trống và thử đầm mình vào trong làn nước ấm. Ban đầu thì toàn thân cảm thấy như bị thiêu đốt, nhưng chẳng lâu sau đó thì cảm giác đó mờ đi khi lỗ chân lông mở toang, đem lại cho cậu cảm giác khoang khác lạ kỳ.

    Ngồi một hồi lâu thì có một người tiến tới vỗ vai Frenen, cậu liền nhận ra đó là Kohlen. Hắn ta không nói gì, chỉ ngoắc đầu ra hiệu cho cậu đi theo hắn. Hắn dẫn cậu đi băng qua những khu hồ tắm riêng, mà khi cậu hé nhìn qua bức màn rèm cửa thì tận mắt chứng kiến những cuộc vui thác loạn tập thể của những cặp nam nữ trần truồng, nước da bóng mượt, quấn chặc lấy nhau như dây thừng bện, một thoáng kéo ký ức từ cái nhà kho ở Feldivik ùa về trong tâm trí cậu.

    Cả hai dừng chân ở hồ tắm riêng cuối cùng của lối đi, cũng là hồ tắm riêng sang trọng nhất. Án ngữ ở cửa ra vào là hai vệ sĩ, chúng đòi dò soát hai người bọn họ.

    “Các vị nghiêm túc chứ?” Frenen nhún vai cởi khăn tắm ra, để lộ thân hình trần như nhộng.

    Hai vệ sĩ không phản ứng gì, vẫn im lặng tiếp tục công việc sờ mó thô bạo của họ. Như thể đây không phải là lần đầu tiên họ nhận được phản ứng như thế. Kohlen cũng không nói gì, thúc cùi chỏ vào người Frenen như muốn nhắc nhở ‘để họ làm việc của họ’. Rồi cả hai cũng được phép tiến vào trong. Ngâm mình trong nước nóng, ngồi chiễm chệ đối diện với cửa ra vào của hồ tắm là một người đàn ông đứng tuổi, hói đầu, râu trắng, người béo tròn, hầu hạ hai bên là hai kỹ nữ xinh đẹp cũng trần truồng. Phía trước ông ta là mười người đàn ông khác cũng đang trầm mình trong nước nóng, chỉ khác là họ mặt mũi bặm trợn, thân hình rắn rỏi.

    Kohlen phớt lờ đám người đấy, dẫn lối đưa Frenen tới bên cạnh lão già to béo, vừa đi vừa nói, “Lão là Toubkal, chủ của nơi này. Ăn nói khôn ngoan thì anh sẽ đạt được mục đích.”

    Kohlen khi tới gần Toubkal, vừa định mở lời thì bị lão ta ra hiệu im lặng. Rồi lão ngoắc tay, cho gọi hai tên lính gác cửa tới. “Chúng mày nói lời cuối nhanh trước khi người của ta đem chôn chúng mày,” lão nói nhưng phớt lờ hai người bọn họ.

    Frenen điềm nhiên bước xuống hồ, ngồi ngang tầm với Toubkal, trong khi Kohlen còn đang đứng ngơ ngác, không biết những lời mình vừa nghe là thật hay đùa.

    “Tôi đến không phải để nói,” Frenen đáp. “Tôi đến để nghe tuyên bố của ông.”

    Toubkal chợt quay sang nhìn Frenen chằm chằm không chớp mắt, cứ thế cho tới khi hai tên lính tới kề bên, chuẩn bị đụng tay vào người Frenen thì lão ra hiệu ngăn lại. “Ai sẽ là người lắng nghe?” lão hỏi.

    “Một nhân vật mà ông không đủ xứng đáng để biết,” Frenen điềm nhiên đáp.

    Toubkal bèn ra hiệu cho đám lính lôi Kohlen ra khỏi nhà tắm, rồi sai hai ả kĩ nữ tới bên cạnh Frenen, âu yếm, mơn trớn, cọ xát, và làm những động tác gợi dục.

    “Một kẻ mà ta không đáng được biết tên thì cớ gì hắn lại chịu nghe ta nói?” lão nhếch mép hỏi.

    “Tùy thuộc vào câu chuyện của ông là gì. Những kẻ biết đến ngài thì sẽ biết cách nói dối ngài. Ngài muốn thấy được những thứ ở góc khuất.”

    “Làm đi,” Toubkal nói với hai ả kĩ nữ. Tức thì ả tóc vàng liền lấy thân mình xinh đẹp nuốt chửng dương vật của Frenen, rồi nuốt nhả nhịp nhàng theo từng tiếng rên. “Mày tự tin đến kiêu căng, dối trá đến trắng trợn, thằng lõi con” lão rủa. “Lòng dũng cảm của mày xứng đáng được hưởng một con điếm đẹp trước khi ta cắt họng mày, đổ nước nóng vào trong, và thỏa mãn nhìn mày hấp hối.”

    “Đừng giết sứ giả… ah…” Frenen vừa nói vừa thở nặng. “Ngài có chắc là… ah… tôi ngang nhiên một thân một mình đến đây? Tôi đến… để xác nhận một lời tuyên bố chính thức… ah… Tôi chết ở đất Leukem… thì Leukem mang tội… ah. Tương tự… nếu tôi chết ở đất của… Lanter… ah. Nếu tôi chết… ngay đây… ah… Lanterbreiner… sẽ ập vào và làm chứng… Buộc Tarbas phải có… ah… quyết định. Lanter… dám tin tôi… ah… và ông… dám nghi ngờ tôi?”

    Toubkal lại nhìn Frenen chằm chằm trong một lúc, mặt lão như muốn nổi điên. Rồi lão quay sang nhìn một kẻ đang trầm mình gần đó, và kẻ đó đáp lại, “Chúng đang ở đây. Và những kẻ khác nữa. Khá đông.”

    Toubkal lại quay sang hai ả kĩ nữ, “Làm nhanh lên.”

    Ả tóc vàng tức thì nhấp nhanh hết mức có thể, đến nỗi tiếng nước cứ bì bõm to như thể là đang sôi sục, còn ả tóc nâu thì chơi đùa nơi đầu vú của Frenen. Chẳng mấy chốc thì cậu xuất tinh, nơi vai gáy như bị tê liệt vì đê mê, cảm giác còn tuyệt hơn lúc cậu gần gũi với Reena Salta. Ả tóc vàng ngồi xuống bên cạnh âu yếm vuốt ve cậu, còn ả tóc nâu thì quay trở lại bên lão già.

    “Đơn thuần chính trị… vạch xem ai bạn ai địch,” Frenen nói như nửa tỉnh nửa mê. “Đừng nói cho Leukem, hãy nói cho chính ông.”

    “Ta có thể nói gì được đây?” lão nhún vai. “Chuyện gì xảy ra với đảng là xảy ra với ta. Cậu đã đến đây thì bọn chúng cũng xem như là cậu tìm đến Leukem. Hãy thư giãn, đêm rất lạnh, để tỏ lòng hiếu khách, ta sẽ cho ả đàn bà đẹp nhất nơi đây đến sưởi ấm giường cho cậu. Ylena thì sao? Hay Sasha tóc nâu này nữa? Cả hai sẽ phục vụ cậu tận tình như là với chồng. Nếu cậu muốn trinh nữ, đừng ngại nói ra.

    “Nếu không muốn phụ lòng khoản đãi của ta, ta chỉ cần cậu giúp ta một chuyện, đó là hãy đem cậu chuyện của ta nguyên si, một cách nguyên si, về Tarbas, không thêm thắt, không bớt xén, không chắp vá. Ra một quyết định sẽ là không dễ dàng, nhưng Tarbas phải ra một quyết định đúng đắn.

    “Đầu tiên, cậu ghé Fein Hafer, lũ Lanterbreiner, chúng đã nói gì?”

    “Hãy vờ như là tôi chưa từng đến đấy và tôi đến thăm ông trước.” Frenen nói đoạn quay sang ả kỹ nữ, “Nàng là Ylena phải không? Đừng rờ rẫm chỗ đấy nữa, nhột lắm, ta cần phải nói chuyện.” Rồi cậu lại quay sang Toubkal, “Ông muốn tôi truyền tải một thông điệp nguyên vẹn thì tốt nhất nó phải là một thông điệp chân thật. Ngoài ra hãy chắc chắn rằng nơi đây không tai vách mạch rừng.”

    “Đó là cậu phải là người lo sợ điều này. Chúng ta thì không. Chúng ta không hùa theo ai để chống lại một ai khác. Chúng ta là những Leukem chân chính. Chúng ta không cưỡng đoạt, không trấn lột, không cướp bóc. Chúng ta cho đi và nhận lại, thuận mua vừa bán. Chúng ta tôn trọng luật chơi công bằng nhưng cũng nhận thức được sự tồn tại của những kẻ phá luật, chúng là mối nguy mà chúng ta phải né tránh, chúng ta không côn đồ như Lanterbreiner. Chúng ta là những người theo chủ nghĩa thõa hiệp: mọi thứ đều có thể dàn xếp.”

    “Vậy còn những kẻ không chân chính, chúng là ai?” Frenen hỏi.

    “Là những kẻ đã từng thử dùng vũ lực để nhổ cái gai trong mắt, một lần, và chúng có xu hướng lạm dụng vũ lực để loại bỏ những chướng ngại.”

    “Chẳng phải lúc nãy ngài cũng định cắt cổ tôi, cũng như Kohlen?”

    “Liệu cậu có băn khoăn nếu cậu sải bước đi trên bãi cỏ và giẫm nát lũ sâu bọ? Trừ phi cậu nhận biết được thứ gì đó không phải sâu bọ. Như ta nhìn cậu như một con chó chăn cừu của gã hàng xóm. Ta không giẫm đuôi cậu, cậu không cắn ta. Chúng ta thỏa hiệp. Kohlen? Không đâu, nó là một thằng nhóc được việc và trung thành.

    “Quay lại với chúng, lũ mafiosi. Chúng nghĩ chúng thượng đẳng hơn những Leukem khác, và một cách không chính thức, chúng tự gọi lẫn nhau là các mafiosi. Chúng rặt một lũ trói gà không chặc nhưng đủ thừa tiền để thâu nạp đủ thành phần lưu manh của xã hội. Chúng cứ nở như trứng mối, ngày một đông, đến một lúc hình thành một cánh tư tưởng trong đảng, bọn ta gọi chúng là phe diều hâu.”

    “Thế thì những kẻ mafiosi này lại giống Lanterbreiner.”

    “Không, không phải đâu,” lão Toubkal bật cười, lắc đầu. “Chúng chỉ là những con chó nhỏ xíu, mà cậu biết đấy, chó càng nhỏ thì sủa càng hăng. Không thể nào bì được với Lanterbreiner, những con sói có thể vùi mình im lặng trong tuyết hàng giờ liền chỉ để mai phục một con thỏ trắng. Mafiosi dùng vũ lực để ép kẻ khác chơi theo luật của chúng. Lanterbreiner dùng sức mạnh để ép tất cả chơi theo luật chung.

    “Bản thân nội bộ Lanterbreiner cũng từ lâu phân hóa thành hai nhánh tư tưởng. Một là những kẻ bảo thủ, nóng nảy cạn nghĩ, hay còn được gọi là cánh chủ chiến. Còn đằng kia là những kẻ cấp tiến, tỉnh táo biết nghĩ thấu đáo trước sau trên dưới, hay có thể gọi là phe chủ hòa.”

    “Thế thì lại giống các ông.”

    “Nôm na là vậy. Và vì có cùng suy nghĩ, ta tin rằng hai phe chủ hòa có thể đại diện cho hai đảng đứng ra đàm phán, hoặc tìm cách nào đấy tháo gỡ mâu thuẫn trong êm thấm. Những thương nhân như ta chỉ mong được yên ổn làm ăn mua bán, bọn ta là những kẻ biết tự lượng sức, việc dùng võ lực để triệt hạ Lanterbreiner là quá sức, và là tự sát. Hơn hết, bỏ qua những khác biệt tư tưởng, chúng ta đều là những Telnum, chúng ta không đồng ý để thế lực ngoại bang can thiệp quyết định điềm hưng thoại hay suy vong của Telnum, dẫu có là Chủ Thị hay Tarbas. Chúng ta, Leukem, cần võ lực và tinh thần dân tộc của Lanterbreiner để tồn tại.”

    “Vậy tại sao các ông không còn qua lại làm ăn với Lanterbreiner như trước nữa?”

    “Sự thật là chúng ta vẫn còn, nhưng ít, một phần vì chi phối bởi chính trị, một phần vì chống độc quyền. Tại sao lại có sự dính líu của độc quyền ở đây? Ta sẽ bắt đầu từ ý nghĩa của thiên tính của cạnh tranh. Cạnh tranh trong mua bán vừa có lợi, vừa có hại. Ở nơi cậu sống nếu chỉ có một lò bánh mì, cậu sẽ phải mua bánh với mọi cái giá họ đưa ra, nếu là có cắt cổ thì cậu hoặc chi tiền, hoặc chịu đói. Nhưng nếu có lò thứ hai mọc lên, lò nào rẻ thì tự khắc người ta sẽ đổ xô vào mua, lò bán giá đắt thì sẽ ế chỏng chơ, có thể bị thua lỗ hay thậm chí phá sản. Ở kịch bản này, cậu được lợi.

    “Nếu xét cậu là kẻ nướng bánh, cả thị trấn chỉ mỗi một lò của cậu, cậu sẽ giàu lên nhanh chóng. Có lò khác mọc lên cạnh tranh, cậu sẽ phải giảm giá bán. Có khi cậu giảm đến mức hòa vốn mà vẫn còn đắt hơn giá của lò đối thủ, lúc đó bằng mọi giá cậu phải làm sao cho giá thành của cậu phải rẻ hơn nhưng vẫn sinh lãi, còn không thì cậu không sớm thì muộn sẽ phải phá sản. Bằng cách nào à? Giảm lương thợ phụ việc, tìm nguồn cung bột mì giá rẻ, xây một lò kín đắt tiền nhưng tốn ít củi hơn, hoặc làm cách này hoặc làm cách nọ, đó là vấn đề cậu phải tự tìm ra lời giảm đáp. Ở kịch bản này, cậu chịu thiệt.”

    “Nghe thật có lý.”

    “Nhưng cái tư duy đó lỗi thời rồi. Liệu cậu có mường tượng được tại sao cái lò này bán bánh vừa đắt, vừa dở tệ, nhưng cậu vẫn phải mua bánh ở đó không?”

    “Có phải vì tôi không tiếp cận được cái lò còn lại?”

    “Bỏ qua yếu tố đó.”

    “Có phải vì tôi không có đủ thời gian để tới đó?”

    “Bỏ qua nốt.”

    “Có phải vì tôi có sự ưu ái cá nhân dành cho cái lò đó?”

    “Không, không,” Toubkal phẩy tay.

    “Thế thì tôi chịu,” Frenen nhún vai.

    “Thế thì cậu không phù hợp để làm con buôn. Đây cũng phần hay nhất.”

    “Xin hãy khai sáng cho tôi.”

    “Điều gì xảy ra nếu lò đối địch của cậu phá sản? Hôm nay cậu sẽ mở tiệc ăn mừng. Hôm sau cậu sẽ tăng giá bánh mì. Kẻ nào dám than phiền, cậu xua đuổi hết. Kẻ thua thì phá sản, kẻ thắng thì độc quyền. Bài học rút ra: có kẻ xấu thì mới có kẻ tốt, kẻ xấu mất thì kẻ tốt sẽ biến thành kẻ xấu. Chúng ta, những kẻ mua sắm, sẽ phải cần cả hai kẻ để tồn tại.”

    “Thì ra là vậy, tôi phải thỉnh thoảng gặm bánh mì cháy đen chỉ để nhiều ngay sau mua được bánh mì thơm giòn giá cả phải chăng.”

    “Chịu thiệt trước mắt để đạt lợi lâu dài. Cậu một kẻ xấu để giữ cho kẻ tốt luôn tốt. Câu chuyện vừa kể cũng áp dụng được với quan hệ giữa Leukem với Lanterbreiner, Chủ Thị và Tarbas. Chúng ta thường thuê lính Lanterbreiner là bảo tiêu, nhưng thỉnh thoảng chúng ta cũng thuê lính của những tiêu đoàn ít danh tiếng hơn. Điều này là bình thường cả. Tuy nhiên ta lại phát hiện ra một điều bất thường. Khi đó là lính của Lanterbreiner, chúng ta liên tục bị bọn thổ phỉ Cờ Đen chặn đánh túi bụi, chúng ta vẫn đi hàng thành công, nhưng thiệt hại là không nhỏ. Khi đó là lính của một đám vô danh, chúng ta đi hàng một cách bình an đến kỳ dị, ta không nghĩ đó là do may mắn. Năm lần liên tiếp ta thuê lính của một gã tên là Kisrael. Ta thấy cậu chợt nhướng mày, hẳn cậu biết người này?”

    “Từng nghe qua. Cá nhân tôi đánh giá hắn là hạng đáng ngờ.”

    “Ta cũng nghĩ vậy. Năm lần liên tiếp ta dùng người của hắn, năm lần liên tiếp chuyến hàng đi trót lọt. Cả đi lẫn về! Lúc này ta chỉ có duy nhất một nghi ngờ, đó là đám lính này cùng với bọn Cờ Đen là một ruột! Chỉ có như vậy chúng mới moi tiền từ ta mà không đổ một giọt mồ hôi. Tuy nhiên, nghi ngờ vẫn là nghi ngờ, ta không có bằng chứng xác đáng. Dù sao thì thuê đám gian quân này tiện thì tiện thật đấy, nhưng ta thỉnh thoảng vẫn phải quay lại với Lanterbreiner.”

    “Để giúp cho Lanterbreiner sống về mặt tài chính. Để không cho những kẻ kia chiếm thượng phong độc quyền. Tôi đoán đúng chứ?”

    “Không thể chính xác hơn, cho dù đám Cờ Đen không còn lộng hành như trước nữa.”

    “Tôi không đủ già đời để chứng kiến thời khắc lụi tàn của Cờ Đen cũng như buổi bình minh của Chủ Thị.”

    “Một sự chuyển tiếp, hay chuyển hóa, tùy cách gọi, nhưng đúng, ta cũng tin vậy. Tất cả, bản chất cũng chỉ là một đám, bình mới rượu cũ, nhưng tinh quái, gian manh hơn. Điều này hiển hiện như Mặt Trời, chỉ có điều người ta không dám nhìn thẳng đối diện,” lão nhếch mép cười vẻ bất lực. “Ta chỉ không biết được các đại thần trong đảng và Leukem Chúa đang toan tính gì, mỗi người có khi lại còn có toan tính khác nhau, kẻ khoan dung, kẻ bất chấp, kẻ lại nghĩ càng đông thì càng vui.

    “Chính trị cả, phải biết nhìn ra đâu là bạn đâu là địch, nhưng hỡi ôi tri nhân tri diện bất tri tâm. Một chốc ngơ ngác thì kẻ luôn chào đón cậu niềm nở sẽ chớp thời cơ để đâm vào lưng cậu một nhát chí mạng. Đảng thần Leukem, thực sự, khó nói, là ai đã bán linh hồn. Rễ của chúng dễ chừng cũng đã bám vào Tarbas.”

    “Vậy động tĩnh gần đây nhất của Leukem Chúa là gì? Ông có cách nào lý giải cho nhiều cái chết gần đây của đại thần Lanterbreiner không?”

    “Chúng cũng đã thì thầm vào tai cậu điều này à? Leukem chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ tuyên chiến với Lanterbreiner, ta đã nói rõ ràng điều này rồi. Đây hẳn là mưu kế gắp lửa bỏ tay người của đám Chủ Thị, ngoài chúng ra không ai có đủ lực lẫn động cơ. Chúng không dám động tới đại thần Leukem vì hai nhẽ, một là Leukem còn có lợi cho chúng trong khi Lanterbreiner thì không thể bị mua chuộc, hai và cũng là quan trọng nhất—chúng cần một kẻ để trút vạ.”

    “Nếu như tôi bảo là ông đang nghĩ sai thì sao? Đám Maril của Chủ Thị không giết ông hay bất kỳ Leukem nào là bởi vì các ông quá dễ giết, về mặt sức lực. Lanterbreiner thì khó nhằn hơn, nhưng nếu giết được họ thì chúng sẽ tạo được sức thị uy lên Leukem. Chúng thừa biết về sự tồn tại của các ông, những thương nhân mang chủ nghĩa dân tộc, thà kết minh với Lanterbreiner. Nhìn xem ông có thể mướn biết bao nhiêu hộ vệ ở đây, nhưng thừa biết họ không thể bì với Lanterbreiner, hơn nữa chúng có thể người của Kisrael cũng nên, ông đã dám chắc điều này chưa?

    “Mà gượm đã, nếu đã nghĩ như vậy, thì tối nay người cần được bảo vệ ở đây không phải là tôi. Đó phải là cả ông nữa! Bởi nếu ông chết khi tôi đang hiện diện ở đây chẳng khác nào loan báo khắp nơi rằng Tarbas tuyên chiến với Leukem cả. Buộc Leukem phải có hành động rõ ràng hơn là những bước đi thăm dò để tìm đến sự thỏa hiệp sau cùng.”

    Toubkal nghe vậy thì chợt ngồi im lặng, nhìn mất hồn về làn khói mù mờ, xuyên quá đó là ánh lửa nhảy múa loạn nhịp phía trước. Sau một hồi lâu thì lão chợt đánh tiếng, “Cậu có yêu cầu gì khác cho đêm nay không? Cậu có muốn đổi con điếm nào khác không? Cậu chỉ muốn Ylena ở cạnh cậu đêm nay à? Tốt thôi, ta rất thích ả nhưng đêm nay ta nhường ả cho cậu lúc lên giường. Nhưng giờ chưa tới lúc lên giường.”

    Lão nói xong thì liền đứng dậy đi thẳng ra ngoài, ra hiệu cho cậu đi theo. Lão tiếp tục dẫn cậu đi thẳng tới tiền sảnh của khách điếm, cũng là quán rượu, hai người không mặc gì đàng hoàng mà chỉ che thân bằng một tấm khăn lông cừu to. Lão kéo cậu ra đứng giữa sảnh, vây quanh là hàng chục khách khứa đang chén tạc chén thù. Đột nhiên lão tán mạnh vời mặt Frenen, làm ngả ngửa nằm lăn ra đất. Đúng lúc ấy một nhóm hơn sáu người đồng loạt đứng dậy, bốn người khác đạp tung cửa nhảy vào, tất thảy giương rìu giương khiên, hò hét hung tợn. Thủ hạ của Toubkal cũng liền lao ra tuốt kiếm hộ vệ.

    “Toubkal đê tiện! Thách cái đầu hói nhà mày chạm vào thằng nhóc lần nữa!” một người trong bọn họ la lên, trong khi đám khách khứa đang hoảng loạn tháo chạy khỏi quán.

    “Ta thực lòng xin lỗi, nhưng không có cách nào khác để buộc chúng lộ diện nhanh hơn,” Toubkal nói với Frenen, rồi quay lên nhìn đám người kia. “Kaurf bủn xỉn, nhìn lại cái đầu hói nhà mày đi. Trăm đời con cháu nhà máy vẫn sẽ hói, còn bia nhà mày vẫn tanh thối!”

    “Ôi đau quá,” Frenen khẽ rền rĩ. “Ông nói đúng, bia của lão uống như thuốc rễ cây. Nhưng tôi tưởng bọn họ sẽ đứng nhìn tôi chết.”

    “Ta cũng vậy, cả hai ta đều sai,” Toubkal nói với Frenen. “Nhưng điều này cũng có nghĩa là còn đó hy vọng dành cho chúng ta, về những hướng đi dựa trên tín và nghĩa, hơn là dựa trên những toan tính hèn hạ, những mưu mô ti tiện. Đứng dậy đi, ta đã chuẩn bị một bàn tròn ở dưới hầm, sẽ không lo tai vách mạch rừng.” Rồi lão ngước đầu lên nhìn Kaurf và quát, “Cả cái đầu hói nhà mày nữa, có gan thì đi theo nói chuyện phải trái với ta. Chỉ ta và mày thôi! Những đứa còn lại, cả những đứa đang thập thò ngoài kia nữa, mau vào đây ngồi chờ, ta sẽ đãi chúng mày thứ bia thứ thiệt.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 25-04-2021 lúc 17:47.

  4. #59
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 8: Phương Bắc

    Đoạn 3: Xuân về

    ~~~Toubkal, Austrum, Telnum, khuya sáng hai mươi sáu tháng Mười~~~

    Giữa khuya, Frenen kéo Ylena về phòng và họ lại làm tình ngay sau đó. Họ tắt hết đèn đuốc, không gian trong căn phòng tối đen như mực, nhưng Frenen vẫn có thể thưởng lãm cho dù có là lờ mờ thân hình gợi cảm đến hoàn mỹ của ả kỹ nữ khi ả đang cưỡi uyển chuyển trên người cậu, nhờ ánh đuốc yếu ớt từ bên dưới rọi lên xuyên qua ô cửa kính. Sau một lúc thì ả ưỡng ngực lên, ngã người ra sau, vẻ như muốn nghỉ một chốc vì mệt. Đúng lúc ấy, cậu trố mắt lên bởi ánh kim loại sáng lóe nơi cổ ả kỹ nữ.

    “Dừng tại đây!” một giọng nam già bí ẩn vang lên trong bóng tối. “Động đậy là cổ ngươi—Ah!” Gã chợt thốt lên đau đớn khi ả kỹ nữ ngay tức khắc trở mình dùng tay trái vung chém một lưỡi dao Maril sáng lóe vào người gã. Sự bất chấp của ả phải trả giá bằng cái cổ bị cắt toạc đến mức máu tươi nóng đỏ tuôn ra như suối. Ả đổ gục xuống sàn lăn lết, hai tay ôm chặc lấy cổ, khục khặc được vài tiếng thì ả lịm hẳn, mắt trợn trừng, không kịp trăn trối một chút gì.

    “Mẹ kiếp!” gã thốt lên. “Ả chuẩn bị đến hai lưỡi dao! Đừng động đậy, con trai, giờ ta vô hại rồi.”

    “Ông là ai? Ông muốn gì?” Frenen nằm im một chỗ, chỉ nhổm dậy một chút dựa lưng vào thành giường, cậu không có ý định manh động.

    “Cậu còn có thể nghĩ ta là ai? Cậu có ngạc nhiên khi biết ả ta thực sự là ai? Đừng hỏi ngu ngốc vậy nữa. Đời ta như vậy là xong rồi, ta coi như hết rồi. Ta chỉ còn ít phút, nhưng ta sẽ cầm cự để trăn trối.” Gã từ từ ngồi xuống giường, nói, “Bốn ả kĩ nữ khét tiếng của đám tàn quân, vô danh nhưng có mật danh là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Xuân tóc nâu, Hạ tóc đỏ, Thu tóc Vàng và Đông tóc đen. Đây là Thu, còn con kia là Xuân.” Gã đưa cánh tay ra dưới ánh sáng, “Một đường cắt dài, vô phương cứu. Một nhát chém trượt không thể kết liễu một chiến binh, cho nên để chắc chắn cho việc hạ sát những kẻ như Lanterbreiner, lưỡi dao phải được tẩm độc. Ả cưỡi trên người cậu, tay cậu thì cứ dính lấy vú ả, ả cứ chờ cho cậu xuất tinh là sẽ cắt một nhát vào động mạch đùi của cậu. Đêm nay mạng ngươi được định đoạt sẽ chết, nhưng ta từ chối điều đó. Đổi lại, ta sẽ là kẻ thế mạng.”

    “Đến nọc rắn chúa còn bóp mạch được, hãy để tôi gọi thầy thuốc!”

    “Thứ này không phải nọc rắn chúa, nó là thứ gì khác chưa từng tồn tại ở thế giới này trước đây, một thứ không thể cứu chữa, một vết xước nhẹ thôi cũng cầm chắc án tử. Cũng không cần gọi đại phu cho phí công.”

    “Tóc nâu? Tóc nâu!” Frenen chợt thốt lên. “Toubkal!”

    “Xung quanh hắn hộ vệ đông dày, phòng riêng thì kín cổng vách dày, gia nhân vào khó ra dễ, bọn ta không thể can thiệp. Số phận của hắn sáng mai chúng ta mới rõ. Ta cũng không thể chạy đi cảnh báo đồng bọn bởi ngay khi bước qua cánh cửa ta sẽ tắt thở. Ta cũng không thể để ngươi đi vì lúc ngươi quay trở lại thì ta cũng đã tắt thở. Tin tình báo ta thu thập được và giữ kín giờ phải có người thừa kế.

    “Bề trên phái chúng ta—Maril hoàng kim (prime Maril)—đi theo dấu vết của Murkuro, thông qua những kẻ bị hắn mua chuộc và thủ hạ của hắn. Hắn là bậc thầy ẩn thân và điều hành. Tất cả nhận lệnh của hắn qua những lá thư chuyển tiếp, không thể truy vết, nhưng hệ thống ma quỷ của hắn lại hoạt động trơn tru không thể tin được. Hắn thuê đám Maril tàn quân (rogue Maril) để triệt hạ những kẻ không thể mua chuộc, cũng như để thông hiểu cách hành sự điều tra của Maril, điều đó càng làm cho chúng ta khó tóm được hắn.

    “Chúng ta đụng độ chúng,” gã chỉ tay về phía xác Thu, “đánh bại nhưng không lần nào bắt sống được để tra khảo. Chúng thừa biết bọn ta sẽ làm gì, nên chúng chọn trả đũa và chết. Tuy nhiên bọn ta vẫn mò ra một đầu mối quan trọng để tóm lấy Murkuro, nhưng bọn ta không thể thực hiện được. Trong đám thuộc hạ của Murkuro có một gã tên nghe giống hệt hắn—”

    “Markuro?”

    “Một chiến binh, rất mạnh, mạnh hơn cả Lanterbreiner thiện chiến nhất. Hắn chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Murkuro, nói về trực tiếp thì ở đây có nghĩa là Murkuro phải đích thân đi gặp hắn.”

    “Vẻ như Murkuro đang đi tìm nhờ cậy gã dũng sĩ này.”

    “Có lý. Hắn là một kẻ lầm lũi, lang bạt, không giao tiếp, không tiếp xúc, không lắng nghe một ai trừ Murkuro, hắn khó để truy tìm như chính Murkuro. Người phe ta một lần tìm thấy hắn, bủa vây bắt giữ, nhưng kết cục đều bỏ mạng cả. Một nhóm Đông Chạn hay kỵ binh thì có thể làm được điều này. Cậu có thể làm được điều này.”

    “Hắn ta trông như thế nào?”

    “Thấp lùn, vai rộng, tóc xoăn đen, mang trường kiếm, ít nói, có kẻ gọi hắn là Nogias. Lần cuối bọn ta nhìn thấy hắn là ở một lò luyện thép trong lòng núi. Tình báo gần nhất cho biết hắn đang đi xuống phía Nam, đâu đó gần Denfort. Hành trình điều tra của cậu ở Telnum đã kết thúc tại đây, trong người ta có mang ghi chép về một danh sách các cơ sở và kẻ thờ Murkuro, chưa phải là tất cả và sẽ còn dài nữa, hãy trở về cấp báo cho nhân vật ra lệnh trực tiếp cho cậu, chỉ người đó và không phải một ai khác, và sau đó đi theo Markuro. Mang theo ít nhất hai gã Lanterbreiner bởi trên đường về chúng sẽ mai phục. Cậu sẽ phải cần ít nhất năm tên Đông Chạn để lần theo dấu vết của Markuro, bởi lũ tàn quân sẽ không chịu dừng bước, chúng sẽ trả đũa, hoặc cản trở bằng cách bắt con tin đe dọa. Nhưng cậu thì chẳng có ai để mất cả.”

    “Chúng sẽ trả đũa những người đã giúp tôi. Nếu thiên hạ biết việc giúp tôi sẽ bị trả đũa thì sẽ chẳng ai chịu giúp tôi nữa. Tôi sẽ bị dồn vào đường cụt. Ôi! Gia quyến của Kohlen và Bronn!”

    “Bronn không phải là kẻ ngờ nghệch, hắn ngay từ đầu đã mở lời nhờ vả với đám Lanterbreiner trong vùng. Họ sẽ không sao, họ sẽ xoay xở được cho tới khi cái đầu con mãng xà chúa bị chặt đứt. Còn với những người khác thì ta không chắc chắn. Nhưng nếu cần thì cậu phải tra tấn họ, hành hạ họ để biết được điều họ biết. Sự hợp tác sẽ giúp họ sống thảnh thơi được thêm một ngày, sự chống đối sẽ khiến họ thống khổ cho tới chết. Đó là xảo thuật hữu dụng mà một Maril có thể dạy cậu.

    “À còn một điều nữa, Telnum ngay từ đầu không chỉ cung cấp thép cho Tarbas, họ còn gửi cho chúng ta món quà khác—lưu huỳnh và ánh mai!”

    “Lưu huỳnh? Ánh mai? Đó là cái gì vậy?”

    “Ở đây họ gọi chúng là sulfrefosforos, thành tố quan trọng để tạo ra thuốc pháo sáng, và cả vũ khí thế hệ mới! Chúng có thể tìm thấy ở trong lòng núi, hoặc xung quanh những hồ nước nóng, đặc trưng bởi mùi trứng thối.”

    Frenen chợt nhướng mày.

    “Toubkal sở hữu những hồ nước nóng, chỗ có mùi nặng được dùng làm mỏ khai thác, nơi có mùi nhẹ thì được dùng như hồ tắm. Hắn là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng. Chủ Thị muốn tác động tới hắn để làm gián đoạn nguồn cung cấp lưu huỳnh cho công xưởng thuốc pháo hoa. Tình báo từ vùng viễn đông tiết lộ rằng Murkuro cũng muốn tìm cách tạo ra pháo sáng, nghiễm nhiên hắn cần tìm cho mình một nguồn cung ứng nguyên liệu ổn định và trung thành. Như cậu thấy tác phong của Murkuro rồi đấy, nếu không mua chuộc được thì phải tiêu diệt.

    “Đáng lo ngại hơn, có tin báo rằng hắn đã tìm thấy một nguồn cung cấp lưu huỳnh và ánh mai dồi dào và rẻ tiền từ phía đông! Cậu sẽ không tài nào tưởng tượng được từ đâu mà hắn đào ra hai thứ ấy. Đó là từ phân dơi! Dãy Cực Tây có hằng hà sa số những hang dơi lớn nhỏ, ở đó lũ dơi trút phân xuống, tích tụ hằng trăm năm hình thành nên những núi phân khổng lồ. Người của hắn hẳn đã
    biết cách trích xuất lưu huỳnh và ánh mai, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi hắn có pháo sáng cho riêng mình. Liên minh giữa hắn và quỷ không bền chặc lắm đâu.

    “A… tay chân ta tê cứng như hóa đá, chẳng mấy chốc nữa tim ta cũng hóa đá nốt. Nốt án này, nốt đêm nay là ta sẽ được nghỉ hưu, thế mà ta lại… Đừng quên bản ghi chép. Sáng mai hãy đem xác ta xuống dưới, đồng bọn của ta sẽ biết phải làm gì.” Gã vừa dứt lời thì đổ đục xuống sàn như một khối đá nặng nề.

    ~~~Austrum, Telnum, ngày mười hai tháng Mười Một~~~

    Sáng hôm nay bầu trời Telnum lặng gió, không gian quang đãng, khắp nơi phủ tuyết trắng xóa bởi trận bão tuyết vừa tan đêm hôm qua. Người dân Austrum lại đổ ra đường để làm đủ thứ việc, người thì dọn tuyết, người thì sửa sang nhà cửa, người thì đi tìm mua nhu yếu phẩm, người thì đi mua thêm áo ấm, khăn choàng.

    Cô con gái út Saoirse của ông chủ tiệm sắt Kohlen cũng biết mình sắp sửa được mua cho một cái khăn choàng cổ mới, nhảy chân sáo bước vào tiệm vải Kruger lớn nhất thị trấn.

    “Ồ, bà muốn mua loại khăn choàng đẹp nhất cho con gái sao? Vậy thì xin mời lên tầng trên, cô bé tha hồ mà lựa,” lão chủ tiệm to béo mời chào niềm nở.

    Ở trên đấy, Saoirse cứ chạy tới chạy lui trầm trồ xuýt xoa, miệng cười toe toét, đắm mình giữa một rừng khăn choàng thêu họa tiết sặc sỡ. Cô bé lon ton mãi một hồi lâu thì mới lựa được một cái khăn thêu hoa màu hồng. Người phụ nữ mà ai cũng nghĩ là mẹ của Saoirse đi tới vén mái tóc vàng của cô bé lên rồi quàng khăn qua cái cổ nhỏ bé.

    “Cô bé có mái tóc vàng óng ả thật đẹp,” người phụ nữ đó nói. “Đẹp hệt như nắng mùa thu trải dài trên cánh đồng cỏ vậy, đẹp hơn cả mái tóc của cô ấy.”

    “Người ấy là ai vậy ạ?”

    “Một người bạn của ta, cô ấy đã đi xa thật xa. Ta hỏi nhé, cả ta và mẹ cháu đều tóc nâu, vậy ai đẹp hơn?” cô ta nói khi đang quấn khăn cho Saoirse.

    “Tất nhiên là cô đẹp hơn rồi,” cô bé hồn nhiên đáp. “Ước gì cháu lớn lên được xinh đẹp nhường như cô.”

    Cô ta mỉm cười, nói như vu vơ, “Cái cổ này… trắng nõn nà, nhỏ bé và thật mong manh. Nếu có bẻ gãy thì chắc cũng không tốn sức mấy đâu nhỉ?”

    “Ô cái khăn này thật đẹp!” Một người phụ nữ khác ở đâu lao tới thốt lên. “Chàng nhìn xem này, nó thật đẹp. Mấy cái khác chẳng vừa ý em.”

    “Xin lỗi?” người phụ nữ tóc nâu cau mày, gượng cười tỏ ra lịch sự. “Quý cô đây là…?”

    “Ôi tôi thật bất lịch sự, tôi tên là Illysia, tôi cũng đang lựa khăn choàng trên này. Kia là chồng tôi. Cô bé xinh xắn đáng yêu hẳn là con gái của cô. Anh ấy cũng muốn có một cô con gái bé bỏng để cưng chiều. A! Tóc cô thật đẹp! Vừa bồng bềnh vừa mượt mà. Đây, cô hãy nhìn xem, tóc tôi thật tệ, tôi thật không biết phải làm sao. Cô có thể chỉ cho bí quyết được không? Tôi năn nỉ đấy.”

    Người phụ nữ tóc nâu chợt ngượng nghịu, mặt vẻ tự hào, bèn đưa tay vén hết tóc ra trước, “Để được như thế này cũng không dễ đâu, phải biết dùng đúng loại thảo dược dưỡng tóc, thậm chí là kết hợp nhiều loại. Tôi hay dùng loại…” Ả đương nói thì bỗng chợt dừng lại, nhận ra Saoirse và người đàn ông kia đã biến mất khỏi tầm mắt.

    Illysia—thực ra chính là Monet—ngay lúc đó rút dao tạt ngang một đường bén ngót, nhưng ả tóc nâu vẫn né kịp, không bị đả thương, chỉ bị cắt mất một nhúm tóc dày. “Vinh hạnh diện kiến Xuân nương!” Monet nó rồi quay người lao thẳng tới ban công.

    Xuân liền rút ra hai lưỡi dao, phóng đồng thời về phía lưng Monet, nhưng chỉ găm trúng vào phần tà váy dính chặc vào sàn. Monet liền tháo bỏ váy rồi nhảy qua ban công xuống thẳng xuống kệ vải ở tầng dưới, làm mấy hàng vải đổ kềnh càng ra sàn.

    Monet nhanh chóng đứng dậy lao ra cửa thì lúc này chỉ biết đứng sững sờ nhìn thấy Gotsar bị ba người gia nô khống chế, ghì chặc xuống sàn, còn Saoirse thì trong tay lão chủ tiệm Kruger, vây quanh bọn họ là phụ nữ và trẻ em đương mua sắm vải.

    “Làm sao mà chàng lại đi thua mấy tay nông dân được?” Monet thốt lên chán chường.

    “Đầu tiên… chúng không phải nông dân,” Gotsar gượng đáp. “Thứ hai… nàng không biết nông dân sức lực đến nhường nào đâu!”

    “Được rồi, bà con hãy bình tĩnh nghe tôi nói,” lão chủ Kruger nói. “Cô bé Saoirse không hề quen biết hai người này, sự việc rõ ràng là một vụ bắt cóc trẻ con. Tôi đã cho người đi gọi tuần binh, họ sẽ đến sớm thôi. Trong khi đó chúng ta sẽ bắt giữ bọn họ lại. Bà con không phiền làm nhân chứng thì xin hãy nán lại một chút để giúp…”

    Lão chưa kịp nói hết thì khách khứa đồng loạt bỏ về, họ sợ con trẻ gặp nguy hiểm nếu có ẩu đả xảy ra. Lúc này thì Xuân cũng vừa đi xuống, mắt long sòng sọc, túm tóc Monet giật ngược ra sau.

    “Tuyệt, mẹ cô bé đây rồi,” Monet mỉa mai.

    “Nói đi nào Saoirse!” Gotsar la lên. “Rằng cháu không hề quen biết cô ta.”

    “Đồ ngốc!” Monet thốt lên. “Ông ta không có gọi tuần binh đâu, ông ta là một giuộc với ả!”

    Lúc đó bỗng có một người đàn bà lọm khọn ẵm một đứa bé sơ sinh bước vào tiệm, “Chào ông chủ, tôi đến tìm mua khăn ấm cho đứa con bé bỏng của tôi.”

    “Xin lỗi quý khách, tiệm tôi hôm nay đóng cửa sớm,” Kruger ngăn bà ta lại và đáp.

    “Xin ông thương tình bán cho, nếu nó lại tè thì tôi không còn cái khăn nào để quấn cho nó. Ôi thôi chết, nó lại tè mất rồi,” bà ta nói đoạn cởi khăn quấn cho đứa trẻ, trong lúc mở khăn thì một quả bóng nhỏ màu đen rơi xuống sàn và nổ bụp, xì khói mù mịt.

    Lúc khói vừa tan thì Saoirse, người phụ nữ và đứa trẻ đều biến mất. Còn Gotsar và Monet thì chạy ngược vào sâu trong căn nhà. Thực ra Gotsar thừa thời cơ để bỏ chạy, bởi người phụ nữ được gọi là Góa Phụ đó trong lúc khói mù chưa tan đã tấn công Kruger và ba tên gia nhân, cướp lấy Saoirse và Gotsar khỏi tay bọn chúng. Nhưng còn Monet thì sao? Góa Phụ không muốn mạo hiểm. Gotsar liền chạy ngược vào xô xát với Xuân nương, ả ta cũng chẳng vừa, nắm dao đâm túi bụi, nhưng chẳng ăn nhằm gì với áo giáp của kị binh. Thậm chí ả còn tự cắt phải tay mình vì áo giáp quá cứng, khiến lòng bàn tay ở trượt dài lên lưỡi dao.

    Thế là Monet thoát, thừa biết chuyện gì đã xảy ra, thầm cảm động, không những thế ả còn nhanh tay tạt dao chém một nhát lên mặt Xuân nương.

    Hai người bọn họ buộc phải chạy ngược vào sâu trong nhà để kiếm đường khác, họ nhắm đến cửa sau đi ra hẻm nhỏ. Trên đường chạy họ băng qua một gian phòng chất giá treo vải cuộn, Monet liền lấy dao cắt ngang một thân nến đang cháy trên giá đèn, hất nó vào một giá vải. Vải phải được giữ khô, nếu không sẽ bị dính nấm mốc, thế là nó dễ cháy. Ả đạp cho giá vải ngã đè lên giá khác, rồi giá này lại ngã đè giá kia, sau một lúc thì toàn bộ giá vải trong gian phòng ngã rạp, bén lửa cháy tung khói mù mịt.

    Mấy tên gia nhân đuổi theo lấy kim phóng tới như ám khí. Một tiệm vải chuyên may đo trang phục thì thiếu gì kim và kéo bén nhọn, to nhỏ đủ mọi cỡ. Monet lấy một cuộn vải lớn giương lên đỡ ám khí, còn Gotsar thì lấy thân giáp ra che chắn cho ả, tay cậu thì đưa lên che chắn đầu cổ. Họ cứ thế bình an vô sự tiến tới cánh cửa sau.

    “Xuân nương Brunette! Ta từng ngưỡng mộ nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của cô, nhưng giờ có lẽ ta không cần phải như vậy nữa!” Monet ngoái lại la to khiêu khích. “Kruger Vô Loài! Tham lam như ngươi thì nên lo dập lửa đi, đừng đuổi theo bọn ta vì bọn ta đã giăng mai phục rồi!”

    Kế khích tướng, Gotsar nhận ra điều này, cũng chỉ tặc lưỡi vì thấy hành động này chẳng đáng gì. Cậu lao tới tung cước uy lực, đạp tung cánh cửa, và trước mắt họ hiện ra một bức tường gạch xây bít lối. Bọn họ đứng sững sờ, trố mắt nhìn. Thôi bỏ mẹ rồi!

    Gotsar liền kéo tay Monet chạy lên cầu thang gần đó. Hắn có thể bít cửa đi nhưng không thể bít cửa sổ! Trước khi bước vào căn nhà, cậu đã quan sát thấy phía trước mặt tiền nơi tầng hai có cửa sổ gương, và đó là lối thoát tốt nhất lúc này, cửa sổ ở tầng cao hơn sẽ nguy hiểm cho một cú nhảy. Do đó bọn họ chạy ở trên hành lang tầng hai ngược ra phía mặt tiền. Ánh lửa từ kho vải nhảy bập bùng trên hành lang của tầng hai, từ trên đó bọn họ có thể nhìn thấy đám gia nhân la hét í ới, cuống cuồng dập lửa thay vì truy đuổi.

    Và rồi đôi nam nữ nhìn thấy ánh sáng tự nhiên lọt qua ô cửa nơi cuối hành lang, và sẵn sàng lấy đà cho một cú nhả liều lĩnh. Tuy nhiên, khi chạy tới một ngã ba, Gotsar bị Kruger ngán chân khiến cho ngã nhào. Lão tay phải cầm chùy xích (flail), tay trái nắm kiếm, ngay lập tức nhảy bổ tới vung chùy nhằm Gotsar giáng thật mình. May sao cậu nhanh chân lăn người né được. Monet liền rút dao ra ứng chiến, lão tạt ngang một đường kiếm chết chóc khiến ả phải nép mình. Tiếp đó từ bên hành lang Xuân nương chạy tới nhảy bổ vào vung dao tấn công Monet tới tấp.

    Gotsar nhanh chóng đứng vững trên hai chân để né những cú vung chùy của Kruger, cậu không có kiếm mà chỉ có một thanh đoản kiếm giắt bên lưng. Lúc này cậu mới hiểu vì sao Kruger được gọi là Vô Loài. Lão chiến đấu dũng mãnh như một chiến binh, không biết chừng dưới lớp áo vải kia là giáp phục nặng nề, nhưng mà lão lại thích buôn bán như một thương nhân, mà trên hết mang thân phận của một Maril tàn quân, điều mà lý ra lão phải tinh tường dao và ám khí.

    “Odger Odger Đại Gia!” Kruger vừa nói vừa vung chùy. “Ta nung nấu một ý định rằng sẽ hiếp ái nữ của hắn trước mặt hắn. Nhưng giờ thì hắn đã toi mạng, còn con gái hắn thì đang ở đây!”

    Ở bên này, Gotsar thì bị dồn vào chân tường vì phải liên tục né đòn, ở góc kia Monet đấu dao với Xuân nương kẻ tám lạng người nửa cân. Monet nhằm vào bàn chân Kruger mà phóng dao. Cú phóng đầu tiên, lão né được, cú phóng thứ hai lão cũng né được, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó lão phải đứng trên một chân, và Gotsar chớp thời cơ lao tới xô lão té ngã. Vì không chân trụ lực nên lão không thể vung chùy, một cú tạt kiếm là đòn công hiệu nhất lão có thể đánh, nhưng với Gotsar thì không hề gì, một hai cái xương sườn bị nứt là quá hời để xô ngã một con quái vật như Kruger. Chùy với kiếm rất lợi hại khi giữ cự ly nhưng lại vô dụng một khi đã bị đối phương áp sát. Lúc đó Gotsar với thanh đoản kiếm là chủ của cuộc chơi, và một cú thọc dao thật sâu vào trong hốc mắt là việc tất yếu sẽ diễn ra.

    Monet đã dùng hai lưỡi dao cuối cùng cứu Gotsar, nên chẳng thể nào chống đỡ Xuân nương được nữa. Chân ả gục xuống vì nhiều nhát cắt liên tiếp. Xuân nương vừa định nhảy vào cắm một nhát chí mạng thì bị Gotsar nắm tóc giật ngược lại, quật thô bạo xuống sàn. Rồi cậu tiến lại gần đỡ Monet dậy. “Ôi không! Nàng đã bị trúng độc.”

    “Không đâu, chàng nhìn xem, ả đã tự cắt phải tay mình bằng chính lưỡi dao của ả.”

    Về phần Xuân nương, lúc này ả vẫn còn sức để mà điên tiết hét lên, lì lợm lao tới. Gotsar nhanh chóng trở người, còn Monet thì la lên, “Không! Đừng giết ả!”

    Lúc đó đã là quá trễ để Gotsar rút lại quả đấm đã tung cực lực vào mặt Xuân nương, bèn nói, “Ả ta không chết được đâu, ả chỉ… bớt ồn ào lại.”

    “Chàng thực sự không biết thương hoa tiếc ngọc là gì. Thế là tốt đấy!”

    ~~~Kinh thành Tarbas, ngày mười chín tháng Mười Một~~~

    Nửa đêm có một nhân vật tiếng tăm mang hiệu nhị hàm đại học sĩ đến gọi Nimbus và ông ta ra đón.

    “Meissner! Cầu cho Tagia gửi ngài đến với tin tốt lành!”

    “Tin tốt lành không thể để bị tai vách mạch rừng.”

    Nimbus bèn dẫn ông ta vào một phòng kín.

    “Levanskorn, con trai trưởng của Leukem Chúa xin thỉnh kiến ngài,” Meissner nói.

    “Ta ủy thác cho ngài việc này,” Nimbus phẩy tay. “Hãy nhớ rằng chúng ta không thỏa hiệp về vấn đề Chủ Thị. Càng phải cứng rắn nếu hắn có thiên hướng mafiosi.”

    “Toubkal, Shekih, Mansur, cả ba đã bị Murkuro ra tay.”

    “Khốn kiếp! Đám người ăn hại của ngươi đang làm gì vậy hả?” Nimbus đập bàn giận dữ.

    “Ám quân không thể cán đán hết mọi sự, vì lẽ đó hạ thần nhờ ngài hỏi xin cấm quân. Trước mắt, cũng như thép, ánh mai và lưu huỳnh sẽ không bị gián đoạn nguồn cung, nhưng tương lai rất khó chắc chắn.”

    “Ta sẽ tâu lên bề trên.”

    “Cũng nhờ ngài dâng lên bề trên bản ghi chép của Odger, không danh sách chưa đầy đủ nhưng cũng rất dài những cái tên thù địch,” Meissner đặt một bao da để lên bàn và đẩy về phía Nimbus.

    “Ta đã dặn Odger là gặp trực tiếp ta cơ mà? Đã có chuyện gì?”

    “Hắn và ba thuộc cấp đã bị hạ. Bù lại, ta đã bắt sống Xuân nương Brunette.”

    “Không có thành quả nào mà không cần sự hy sinh. Hãy đảm bảo là ta sẽ thu hoạch được gì đó từ miệng ả.”

    “Frenen, hắn đang đi xuống phương Nam, hắn đi theo Markuro. Hắn hỏi xin hạ thần cấm quân để trợ lực, thần chỉ có thể cho hắn mười võ sĩ trung thành.”

    “Một thằng nhóc sắc sảo, nhưng tại sao bề trên lại chọn thằng ngốc kia giao cho Odger, ta thực tình không đoán nổi dụng ý của ngài. Hãy gửi thêm mười kỵ binh đi theo hắn, ta sẽ thỉnh xin cấm quân.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 16-05-2021 lúc 13:09.

    ---QC---


Trang 12 của 12 Đầu tiênĐầu tiên ... 2101112

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status