TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 3 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối
Kết quả 11 đến 15 của 19

Chủ đề: [Lịch Sử Quân Sự] - Sáp Huyết (Uống Máu) - Mặc Vũ (New: Chương 15)

  1. #11
    Thiên Kim's Avatar
    Thiên Kim Đang Ngoại tuyến Danh Đầu Hưởng Lượng Thông Ngữ thần thủ
    Ngày tham gia
    Aug 2010
    Đang ở
    Sài Gòn mộng mơ
    Bài viết
    774
    Xu
    1,950

    Mặc định

    Quyển Thượng: Nghê Thường Khúc ( 霓裳曲 )

    Tác giả: Mặc Vũ (墨武)
    Chương 8: Quan Ti (官司)(2)
    Dịch Giả: Thiên Kim (天金)
    Biên Dịch: CCD
    Biên Tập: Bella

    Nguồn: Hội Cú - Tàng Thư Viện
    Tụ nghĩa vô lợi kỷ - Xuất thư bất tư danh



    Mấy ngày này, Quách Quỳ cũng đã đến mấy lần. Nó nói nó đã báo tin cho Quách Tuân hay, nhưng Quách Tuân vẫn còn đang ở bên ngoài, trong lúc nhất thời trở về không kịp. Địch Thanh vốn không muốn để cho Quách Tuân biết chuyện này, với lại sợ liên lụy Quách Tuân nên hi vọng Quách Tuân đừng trở về kinh.

    Trương Ngọc cũng tới vài lần, nhưng mỗi lần đều nở nụ cười miễn cưỡng. Hắn vẫn chưa tìm được Thượng công tử.

    Tâm Địch Thanh đã nguội như tro tàn, thầm nghĩ, "Việc này rất ồn ào, Thượng công tử không phải kẻ điếc, chắc là biết rồi. Hắn không chịu xuất hiện thì dù có tìm được cũng vô dụng thôi.

    Khi biết mình đã không còn hi vọng, ngược lại, tâm tình trở nên phóng khoáng. Mỗi ngày khi rãnh rỗi, hắn đều móc hắc cầu ra xem, nếu trước khi chết có thể nghiên cứu ra bí ẩn của Ngũ Long cũng tốt, nhưng hồng long vẫn không hiện ra.

    Cứ như thế, thời gian nửa tháng lại trôi qua. Vào sáng sớm một ngày, ngục tốt đến đây, quát:
    - Địch Thanh, hôm nay thẩm vấn, chuẩn bị đi thôi.

    Địch Thanh thở dài, thầm nghĩ: người mình đánh là người của Thái hậu, thẩm vấn mình cũng là người của Thái hậu, mình nhất định không thể may mắn thoát tội rồi. Đại ca sao rồi? Rốt cuộc có nên nói cho huynh ấy biết hay không đây?

    Trong lúc suy tư, Địch Thanh bị ngục tốt áp giải ra khỏi ngục Khai Phong, đi thẳng tới nha môn phủ Khai Phong. Mới tới trước cửa, đã thấy dân chúng vây ngăn ở trước nha môn. Thấy Địch Thanh bị áp đến, mọi người nhao nhao tiến lên, bảy mồm tám lưỡi quan tâm nói:
    - Địch Thanh, ngươi không sao chứ?

    Những người này đều là dân thường, có Vương đại thẩm bán bánh bao, có Hùng đại tẩu bán hoa, có Kiều đại ca đốn củi, có Tôn lão hán bán rượu, ngay cả Cao lão đầu, người mà Địch Thanh lần trước giúp đỡ không ngờ cũng tới đây.

    Mấy năm nay, dù rằng chỉ nửa cấp quan giai Địch Thanh cũng không thăng được, nhưng làm việc lâu ngày trong chợ, những người dân đến đây đều đã từng được hắn giúp đỡ. Hay tin hắn hôm nay bị thẩm vấn nên đến đây thật sớm để dự thính.

    Địch Thanh không nghĩ tới còn có nhiều người nhớ mình như vậy, trong lòng rất cảm động. Cao lão đầu run rẩy đứng ra nói:
    - Địch Thanh, người tốt tất được báo đáp, nhất định sẽ không có chuyện gì đâu. Chúng ta đều đến Đại Tướng Quốc Tự thắp hương cho ngươi, xin Bồ Tát phù hộ ngươi.

    Địch Thanh thầm nghĩ,
    - Nghe nói phật Di Lặc ở Đại Tướng Quốc Tự là do Lưu Thái hậu sai người đắp nặn ra, e rằng sẽ phù hộ Mã Trung Lập.

    Nhưng vẫn nói:
    - Đa tạ mọi người, Địch Thanh nếu có cơ hội... Nhất định báo ơn!

    Nha dịch bên cạnh thầm nghĩ, “ngươi có mà đợi đến kiếp sau đi.”

    Bọn nha dịch không để cho Địch Thanh nói thêm nữa, dùng côn bổng tách dân chúng ra, áp giải Địch Thanh vào quan nha.

    Phía trên công đường có treo một cái bảng, trên viết bốn chữ "Liêm khiết công chính". Sau bàn xử án, Phủ doãn Khai Phong - Trình Lâm ngồi nghiêm trang. Nha lại hai bên thấy Địch Thanh tiến vào công đường liền dùng trượng gõ lên nền, đồng thanh hô hai chữ "Uy vũ". Ở trong Nha môn, hành động này gọi là “Gõ hèo”, một mặt khiến cho dân chúng bên ngoài yên tĩnh, mặt khác chính là hù dọa đám tù phạm, khiến bọn chúng sinh ra sợ hãi.

    Địch Thanh đảo mắt nhìn qua, thấy bên tay phải Trình Lâm có đứng một người, nếp nhăn giữa mày giống như đao khắc, lộ ra vẻ cáu kỉnh trời sinh, nhìn cách ăn mặc thì chắc là Thôi quan(5) của phủ Khai Phong.

    Chỗ bên tay trái Trình Lâm ngồi một người, mắt tam giác, mũi hèm rượu, cặp mắt hung dữ nhìn chằm chằm Địch Thanh, vô cùng dữ tợn. Địch Thanh run lên, không biết người này là ai.

    Trình Lâm thấy Địch Thanh quỳ xuống, vỗ Kinh Đường mộc(6), quát:
    - Địch Thanh, ngươi có biết tội của ngươi không?

    Địch Thanh lắc đầu nói:
    - Tiểu nhân không biết.

    Người mắt tam giác đột nhiên đứng lên quát:
    - Giỏi cho tên quan quân xảo quyệt, sắp chết đến nơi còn không biết hối cải sao?

    Hắn nói dồn dập, giống như bất cứ lúc nào cũng có thể tắt thở, chắc là người có tính nóng nảy.

    Địch Thanh không nói gì, ngẫm nghĩ người này có lẽ là thân thích của Mã gia. Quả nhiên, Trình Lâm nói:
    - Lưu Tự Sự, bình tĩnh chút, đừng nóng nảy, hết thảy cứ án theo pháp lệnh mà xử lý.

    Địch Thanh thầm nghĩ, “Lưu Tự Sự? Người này chắc là con trưởng Lưu Tòng Đức của Lưu Mỹ.”

    Trong mấy ngày này, Lý Vũ Hanh đã kể về quan hệ của Mã gia cho Địch Thanh. Địch Thanh biết Mã Quý Lương là con rể của Lưu Mỹ. Lưu Tòng Đức này là vì quan hệ thông gia với Mã Quý Lương mà ra mặt cho con trai Mã Trung Lập của y cũng là bình thường. Nhưng theo gia pháp Đại Tống, thân thích bên ngoại ít nắm quyền cao. Nhà Tống thay đổi quy định trước, trong Cửu Tự Ngũ Giám(7), trừ Đại Lý tự(8) và Quốc Tử giám(9) ra, các chức vị còn lại đều là chức vụ nhàn nhã, không có hoặc có rất ít thực quyền. Lưu Tòng Đức cũng không có tài học, Thái hậu xin chức vị Tự Sự trong Vệ Úy tự(10) cho hắn, thật ra chỉ để lĩnh bổng lộc, cũng không làm được chuyện gì. Nếu bàn về quan giai thực quyền, Trình Lâm hơn xa Lưu Tòng Đức, nhưng Trình Lâm biết địa vị của Lưu Tòng Đức trong lòng Thái hậu, nên lúc này mới khách khí như vậy.

    Lưu Tòng Đức phẫn nộ quát:
    - Bây giờ chứng cớ đã vô cùng rõ ràng, còn thẩm cái gì vấn nữa không biết? Tên Địch Thanh này lấy võ khinh người, ngay trên đường ngang nhiên hành hung, đánh bị thương mấy người, làm hại Mã Trung Lập đến bây giờ vẫn còn nằm liệt giường, hơi thở thoi thóp, không giết Địch Thanh, không đủ để kiềm chế sự phẫn nộ của dân chúng!

    Người có vẻ mặt đầy ưu sầu kia đột nhiên nói:
    - Lưu Tự Sự, đây là phủ Khai Phong, chuyện xử án là thẩm quyền của Trình đại nhân, còn chuyện nghị án do hạ quan phụ trách. Kính xin đừng có vượt quá chức phận, để tránh người ngoài đàm tiếu.

    Người này nói chuyện trong mềm có khuyến cáo, Lưu Tòng Đức oán hận trừng mắt nhìn hắn, dồn dập nói:
    - Bàng Tịch, hôm nay ta xem ngươi làm sao nghị án!

    Trong lòng thầm hận nói: Ngươi đừng để ông mày nắm được sai lầm, bằng không ta bẩm báo Thái hậu, cho ngươi đẹp mặt!

    Bàng Tịch thấy Lưu Tòng Đức không mở miệng nữa, bèn nói với Địch Thanh:
    - Địch Thanh, ngươi hãy đem chuyện xảy ra trước đây kể lại kỹ càng.

    Lưu Tòng Đức quát:
    - Còn kể lể cái gì chứ? Mấy ngày nay chẳng phải đã tra rõ rồi sao? Cần gì phải lãng phí thời gian!

    Trình Lâm ho khan một tiếng, cau mày nói:
    - Lưu Tự Sự, ngươi nếu không hài lòng với phần thẩm án của bổn quan, có thể đến Lưỡng Phủ cáo sách. Nhưng nếu còn kêu gào chốn công đường nữa, bổn quan đành phải mời ngươi ra ngoài cho.

    Lưu Tòng Đức hừ lạnh một tiếng, không lên tiếng nữa.

    Địch Thanh cũng có chút kinh ngạc, không ngờ Trình Lâm, Bàng Tịch lại có chút dáng vẻ cùng làm việc công, chẳng lẽ tin đồn là giả?

    Trình Lâm thấy Lưu Tòng Đức đã câm mồm lại, lúc này mới nói:
    - Địch Thanh, trước hết ngươi hãy chân thật kể lại chuyện ngày đó.

    Giọng điệu y bình tĩnh, nhưng lòng tuyệt không ung dung.

    Chỉ vì một cái bản án tầm thường này lại liên quan tới phạm vi rất rộng, quả thực khó có thể tưởng tượng. Trình Lâm tiếp nhận bản án này, cảm thấy áp lực to lớn, không dám khinh xuất.

    Những ngày vừa qua, Trình Lâm điều tra càng nhiều thì càng do dự, không dám tùy tiện đưa ra phán quyết. Về phía Mã Trung Lập không cần nói nhiều cũng biết. Mấy ngày nay, Mã Quý Lương ngày ngày đều đến trước mặt Thái hậu khóc lóc kể lể, thỉnh cầu nghiêm trị hung đồ, Lưu Thái hậu nghe tin một tên cấm quân tầm thường lại dám đánh người nhà của mụ, giận tím mặt, lệnh cho phủ Khai Phong nghiêm trị. Nhưng tên cấm quân tầm thường như Địch Thanh lại chả tầm thường tí nào, hắn ta chẳng những rất có hiệp khí trong lòng dân chúng, vả lại còn có quan hệ thân thiết với Quách Tuân. Quách Tuân là thế gia tướng môn, dù chưa quay lại kinh thành, nhưng quan hệ rất rộng, Tam Nha, Xu Mật Viện dù chưa lên tiếng, nhưng đều sát sao theo dõi xem chuyện này xử lý như thế nào.

    Vốn một mình Quách Tuân cũng không có tư cách gì mà chống đối Thái hậu, nhưng trong đó còn có nội tình rất trọng yếu ---- đã đến lúc Hoàng thượng tự mình chấp chính, Thái hậu vẫn rề rà không nhường triều chính, triều thần đã có rất nhiều người nghị luận. Qua việc này, trước mắt bách quan muốn nhìn xem, quyền của Thái hậu rốt cuộc to cỡ nào, hiện tại Thái hậu đã không còn một tay che trời!

    Trình Lâm không biết, mình nên lấy lòng Thái hậu hay là xử lý chuyện này theo lẽ công bằng?

    Nếu như nịnh nọt Thái hậu, sau khi Thánh Thượng đăng cơ, tiền đồ của gã chưa biết ra sao. Nhưng nếu theo lẽ công bằng mà xử lý, Thái hậu nói không chừng sẽ lập tức cách chức gã.

    Bên ngoài phủ nha, dân chúng xôn xao. Trước ánh mắt của chúng nhân, mỗi quyết định đều có thể ảnh hưởng sâu sắc, Trình Lâm phân vân chưa biết định luận như thế nào. Trước khi nghe Địch Thanh thuật lại, Trình Lâm đã biết chuyện này là do Mã Trung Lập sai, Địch Thanh chả có lỗi gì lớn. Đợi Địch Thanh nói xong, càng thêm chứng thật phán đoán của mình.

    Nhưng dù chuyện đã sáng tỏ, xử lý lại trở nên nan giải. Trình Lâm suy nghĩ hồi lâu mới nói:
    - Bàng Thôi quan, ý của ông thế nào?

    Bàng Tịch nghiêm mặt nói:
    - Cổ nhân có dạy ‘Kiêm thính tắc minh, thiên tín tắc ám’(11), hạ quan cho rằng vẫn còn phải nghe lời chứng của người ngoài mới được."

    Trình Lâm trầm ngâm nói:
    - Nếu vậy thì…, triệu Trương Diệu Ca của Trúc Ca lâu vào đây!"

    Trương Diệu Ca đã chờ sẵn ở hậu đường, nghe triệu liền khép nép e lệ đi ra, đáng điệu phong tình quyến rũ vô cùng.

    Địch Thanh vốn đã tuyệt vọng, nhưng thấy Bàng Tịch và Trình Lâm đều có tiềm chất của thanh quan thì thấy có hy vọng. Trước mắt, không tìm được Thượng Thánh, lời chứng của Trương Diệu Ca là rất trọng đại, tim hắn không khỏi đập thình thịch.

    Trương Diệu Ca không nhìn Địch Thanh, đến đại đường, quỳ xuống song song với Địch Thanh nói:
    - Thiếp thân Trương Diệu Ca bái kiến Phủ doãn đại nhân.

    Trình Lâm hỏi:
    - Trương Diệu Ca, ngươi trước kia có từng quen biết Địch Thanh?

    Trương Diệu Ca lắc đầu nói:
    - Chưa từng.

    Trình Lâm lại nói:
    - Vậy ngươi hãy đem hết thảy mọi chuyện xảy ra ở Trúc Ca lâu, kể lại tường tận một lần.

    Trương Diệu Ca khe khẽ nói:
    - Trước đây thiếp thân thậm chí không biết người này gọi là Địch Thanh, nhưng mà Phượng mụ mụ bảo thiếp thân cẩn thận tiếp đãi người này, đúng rồi... y còn có hai bằng hữu, một người là Thánh công tử, người còn lại là Diêm Nan Địch.

    Địch Thanh nghe đến đó, trong lòng trầm xuống, liền biết không ổn. Hắn nổi máu nhất thời, giả mạo nha sai phá án, nếu như bình thường sẽ không có gì, nhưng bây giờ mà bị vạch trần, chuyện này sẽ vô cùng nghiêm trọng. Bàng Tịch hỏi:
    - Phượng mụ mụ vì sao muốn ngươi cẩn thận tiếp đãi Địch Thanh vậy?

    Trương Diệu Ca nói:
    - Phượng mụ mụ nói, người này gọi là Diệp Tri Đông, là đệ đệ của Khai Phong phủ - Diệp Tri Thu, nói đến Thính Trúc tiểu viện để tra án...

    Mọi người xôn xao, Lưu Tòng Đức mừng rỡ, quát:
    - Hay lắm, Địch Thanh không những đánh bọn người Mã Trung Lập, mà còn giả mạo nha dịch của phủ Khai Phong, có thể thấy rõ bộ mặt tàn ác của hắn! Trình đại nhân, xin hãy nghiêm trị tên này.

    Trình Lâm nhíu mày, không để ý tới Lưu Tòng Đức, nói:
    - Trương Diệu Ca, ngươi kể tiếp đi.

    Trương Diệu Ca nói:
    - Tuy nhiên, người này đi tới Thính Trúc tiểu viện cũng không có gì tàn ác, chỉ cùng hai người còn lại nghe đàn. Rồi hai người Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý tìm cớ bới móc, Mã công tử quát đuổi hai người này đi. Thiếp thân theo lời Phượng mụ mụ nói, giữ ba người Địch Thanh lại Thính Trúc tiểu viện tiếp tục đàn hát một khúc, sau đó mời bọn họ xuống lầu. Còn chuyện xảy ra sau đó, thiếp thân không biết.

    Trình Lâm hỏi:
    - Vậy ba người này ở trên các lâu, từng có xung đột gì với Mã công tử không?

    Trương Diệu Ca che miệng khẽ cười,
    - Ngoài mặt thì không.

    Trình Lâm cau mày hỏi:
    - Lời này có ý gì?

    Trương Diệu Ca nói:
    - Ngày ấy, Mã công tử đến chắc là muốn ở lại Thính Trúc tiểu viện, nhưng thiếp thân giữ Địch Thanh lại, trong lòng Mã công tử có lẽ có chút bất mãn chăng?"

    Lưu Tòng Đức giận dữ nói:
    - Trương Diệu Ca, ngươi ăn nói cho cẩn thận!

    Trương Diệu Ca cũng không sợ sệt, mỉm cười nói:
    - Nếu đại nhân đã hỏi, thiếp thân sẽ dựa theo sự thật mà trả lời. Nếu như có chỗ nào không đúng, kính xin các vị đại nhân xem tiểu nữ tử kiến thức nông cạn, tha thứ cho tiểu nữ."

    Bàng Tịch trầm ngâm nói:
    - Vậy ba người Địch Thanh ở trên lầu các của ngươi, còn có hành động hung hăng càn quấy nào không?

    Trương Diệu Ca lắc đầu nói:
    - Không, bọn họ có thể nói là ba người ngay thẳng nhất mà thiếp thân đã từng gặp qua.

    Trình Lâm gật đầu nói:
    - Bản phủ đã biết, Trương Diệu Ca lui ra. Triệu tú bà Phượng Sơ Ảnh của Trúc Ca lâu thăng đường.

    Trương Diệu Ca lui ra, Phượng Sơ Ảnh õng a ỏng ẹo lên đại đường, quỳ lạy Phủ doãn. Trình Lâm đề cập ngay vào điểm chính:
    - Phượng Sơ Ảnh, ngươi có quen người trên công đường này không?

    Gã chỉ ngón tay vào Địch Thanh, Phượng Sơ Ảnh thấy Lưu Tòng Đức nhìn mình lom lom, lập tức nói:
    - Quen, hắn gọi là Địch Thanh, giả mạo nha sai, nói cùng với cái gì mà đại nội Diêm Nan Địch của Vũ Kinh đường, còn có bộ khoái tài ba Thánh công tử đến phá án, muốn xem xét Thính Trúc tiểu viện một chuyến. Thiếp thân không dám đắc tội bọn họ, mới gọi Diệu Ca tiếp đãi ba người này, không ngờ bọn họ chẳng những giả mạo nha sai, còn đánh Mã công tử trọng thương, thật sự đáng giận đến cực điểm.

    Địch Thanh nắm chặt hai đấm, nhưng lại không có cách nào giải bày. Phượng Sơ Ảnh cắt cắt giảm giảm, nói mấy câu đã định hắn là kẻ ác độc, còn khiến người ta không thể nào giải thích.

    Mũi cà chua của Lưu Tòng Đức hưng phấn càng thêm đỏ bừng, nhưng lúc này lại không vội yêu cầu Trình Lâm nghiêm trị Địch Thanh.

    Trình Lâm bảo Phượng Sơ Ảnh lui ra, bèn hỏi Bàng Tịch:
    - Bàng thôi quan, ông có kết luận chưa?

    Bàng Tịch chậm rãi nói:
    - Chuyện Địch Thanh giả mạo nha dịch, tuy rằng không đúng nhưng chưa gây thành tai họa, phải do chính Tam Nha tự xử trí. Về phần chuyện đánh Mã công tử, lại có nhân quả. Nếu án theo Địch Thanh, Trương Diệu Ca và cùng một số dân chúng đứng xem mà nói, Mã công tử ra tay trước, thậm chí còn đánh kẻ điên. Địch Thanh quay lại cứu giúp, đã ngộ thương Mã công tử. Có thể nói là mỗi bên đều sai..."

    Lưu Tòng Đức bỗng nhiên đứng lên nói:
    - Bàng Tịch, ngươi là Thôi quan cứt chó gì? Loại kết án này mà cũng có thể nói được sao? Trương Diệu Ca chỉ là một ả ca kỹ, địa vị thấp kém. Dân chúng nói, sao lấy làm chuẩn được? Địch Thanh nói, càng không được coi là chính xác!

    Bàng Tịch cũng không tức giận, thản nhiên nói:
    - Kính xin Tự Sự đại nhân nói năng cẩn thận, chức vị của hạ quan tuy hèn mọn nhưng quan chức dù sao cũng là do Thánh Thượng phong. Ông thuận miệng nhục mạ, sợ rằng không thỏa đáng lắm. Hơn nữa Trình đại nhân hỏi ý kiến, hạ quan chỉ dựa theo thông lệ trả lời, cung cấp chút căn cứ để xử án. Trước mắt, dựa vào những nhân chứng này, hạ quan cũng chỉ có thể rút ra những kết luận như vậy. Ông nếu cảm thấy không ổn, có thể đưa ra ý kiến khác, không cần phải la hét trên công đường.

    Lưu Tòng Đức oán hận trừng mắt nhìn Bàng Tịch nói:
    - Ta cho rằng nếu muốn biết rõ chân tướng chuyện này, cần phải hỏi đám người của Thính Trúc tiểu viện, chỉ dựa vào lời khai của hai người Địch Thanh và Trương Diệu Ca, làm sao chính xác?

    Trình Lâm gật đầu nói:
    - Lưu Tự Sự nói cũng có lý. Triệu Chu Đại Thường và những người liên quan thượng đường!"

    Cùng thượng đường với Chu Đại Thường không chỉ có Dương Đắc Ý mà còn có ba ngươi khác. Địch Thanh nhận ra ba người này đều là tân khách lúc trước ở Thính Trúc tiểu viện, thấy Lưu Tòng Đức cười gian, trong lòng trầm xuống.

    Chúng nhân dưới công đường báo tên ra. Trong ba người ngoài, người mập ụch ịch là Đông Lai Thuận, là thiếu chưởng quỹ của một quán rượu, người mặc áo lụa gọi là Văn Thành, vốn là chủ nhân cửa hiệu tơ lụa Lục Ý, còn người mặt rỗ mở cửa hiệu trái cây, gọi là Cổ Thận Hành.

    Chu Đại Thường nói trước:
    - Hôm đó, sau khi Mã công tử rời khỏi Trúc Ca lâu, vốn muốn kết bạn với Địch Thanh, cho nên chờ ở ngoài lâu. Không ngờ Địch Thanh sau khi xuống tới, lại dùng lời lẽ ác độc chửi Triệu công tử... Về phần chửi cái gì, không tiện nói ra.

    Đông Lai Thuận tiếp lời:
    - Có cái gì mà không thể nói ra được chứ? Địch Thanh nói Mã công tử không biết tốt xấu, dám tranh đoạt nữ nhân với y, bảo Mã công tử mau mau cút đi, nếu không thì thấy hắn một lần đánh một lần.

    Văn Thành nói:
    - Mã công tử lúc ấy rất mất hứng, nhưng dẫu sao cũng là người khiêm tốn, đành nhẫn nhịn. Không nghĩ tới Địch Thanh cho rằng Mã công tử yếu đuối nên cứ lấn tới, hắn bắt đầu nhục mạ ... nói ... haiz, cái này có quan hệ với Thái hậu, tại hạ không dám nói.

    Dứt lời, hắn lắc đầu liên tục, vô cùng đau đớn. Hắn dù chưa nói, nhưng hậu quả so với nói còn muốn nghiêm trọng hơn.

    Địch Thanh càng nghe càng kinh, một cổ lửa giận từ đáy lòng bốc lên, quát:
    - Ta và các ngươi không cừu không oán, các ngươi vì sao phải vu oan cho ta?

    Hai mắt hắn trợn lên, trán nổi gân xanh.

    Cổ Thận Hành lui về phía sau một bước, chỉ vào Địch Thanh nói:

    - Khi đó, tính khí của hắn tàn bạo như thế đấy, liên tục hò hét. Mã công tử thấy hắn nhục mạ Thái hậu, cãi lại với hắn hai câu, ai ngờ hắn đánh thẳng tay, thực là coi trời bằng vung.

    Dương Đắc Ý nói:
    - Nhóm tiểu nhân đều không nhịn được, có người đến gần khuyên gã, chẳng ngờ cũng bị gã đấm cho mấy đấm.

    Dứt lời chỉ một ngón tay vào khóe mắt bầm tím nói:
    - Chỗ này là do hắn đánh.

    Địch Thanh cắn chặt răng, thân thể khẽ run, đã biết mục đích của những người này chỉ có một, đó là không giết được hắn thề không bỏ qua!

    Chu Đại Thường tiếp lời nói:
    - Cũng may gia đinh của Mã công tử chạy đến, họ chỉ muốn khuyên Địch Thanh đừng đánh nữa. Ai dè Địch Thanh lại phát điên như chó, cắn xé khắp nơi, trong lúc hoảng loạn, không biết là ai đẩy nhầm một người qua đường. Mã công tử “thương người như thể thương thân” nên vội vàng chạy đến bảo vệ. Người này dường như là tên điên, sau này không còn biết tung tích nữa. Địch Thanh lúc này đã bị chế trụ, Mã công tử nói: 'Chỉ cần Địch Thanh nhận sai, sẽ bỏ qua tất cả mọi chuyện.’ Không ngờ Địch Thanh lòng người dạ thú, giả vờ nhận sai rồi nhân lúc gia đinh thả hắn ra, xông tới đánh ngã Mã công tử, trong lúc hỗn loạn, xe củi bị lật đổ, Mã công tử bị đè dưới xe.

    Gã nói xong cầm góc áo lau khóe mắt, nức nở nói:
    - Đáng thương cho Mã công tử có tấm lòng Bồ Tát, số mệnh lại bị như thế. Bọn tiểu nhân nhịn không được, lúc này mới dũng cảm nói ra chân tướng, chỉ cầu Phủ doãn đại nhân cho Mã công tử công đạo!"

    Năm người này muôn miệng một lời, y như là trước đó đã diễn luyện qua. Lưu Tòng Đức đứng dậy chắp tay nói:
    - Phủ doãn đại nhân, bây giờ chắc hẳn chân tướng đã rõ rồi chứ? Địch Thanh ăn nói lung tung, vọng tưởng lừa dối, không ngờ lưới trời lồng lộng, lưới trời lồng lộng a.

    Lưu Tòng Đức vì muốn định tử tội cho Địch Thanh, đặc biệt tìm một hơi tới năm nhân chứng. Hắn mặc dù thấy dân chúng bên ngoài nha môn không ít, nhưng cũng biết tình cảnh lúc ấy hỗn loạn, rất nhiều người không hiểu tình huống, hơn nữa hắn cũng không tin có người dân nào dám ra đây đối nghịch với Lưu gia, làm chứng cho Địch Thanh.

    Trình Lâm lại nhìn Bàng Tịch, nói:
    - Bàng thôi quan, ông có kết luận gì không?

    Bàng Tịch đi vài bước thong thả trước công đường, đột nhiên hỏi:
    - Năm người các ngươi trước đây có biết Mã Trung Lập không?

    Năm người không ngờ thôi quan lại hỏi như vậy, có hai người gật đầu, ba người lắc đầu, người gật đầu thấy có người lắc đầu liền vội vàng lắc đầu, người lắc đầu thấy có người gật đầu cũng cuống quýt gật đầu, trong lúc nhất thời vô cùng tức cười.

    Bàng Tịch buồn rầu nói:
    - Rốt cuộc là quen hay là không quen?

    Lưu Tòng Đức ho khan một tiếng, nói:
    - Đương nhiên là sau khi đến Trúc Ca lâu mới quen.

    Hắn nói như vậy, chỉ muốn tăng thêm độ tin cậy của lời chứng. Năm người đều gật đầu nói:
    - Lưu đại nhân nói rất đúng, tất nhiên là sau khi đến Trúc Ca lâu mới quen.

    Ánh mắt Bàng Tịch đảo qua trên người năm tên này, nghiêm nghị nói:
    - Bọn ngươi cũng biết luật ‘Vu cáo phản tọa(12)' của bổn triều rồi đấy, nghiêm cấm vu cáo, nếu như bị tra ra vu cáo thì sẽ bị nghiêm trị?

    Năm người ngơ ngác nhìn nhau, ẩn ước vẻ sợ hãi. Lưu Tòng Đức cười lạnh nói:
    - Bàng Tịch, ngươi đang uy hiếp bọn họ sao? Ngươi chẳng lẽ cho rằng mấy người này là do ta tìm đến để vu cáo Địch Thanh sao?"

    Bàng Tịch tỏ vẻ kinh ngạc hỏi:
    - Lưu Tự Sự vì cớ gì mà nói ra lời này? Hạ quan chỉ cảm thấy trong lời khai của bọn họ có một số chỗ mâu thuẫn, lúc này mới mở miệng nhắc nhở mà thôi. Nếu như bọn họ làm đúng thì hà tất gì phải nhắc nhở chứ?

    Lưu Tòng Đức mặt đỏ tới mang tai, biết Bàng Tịch đang thầm mỉa mai mình. Hắn hừ lạnh nói:
    - Vậy phải nghe cao luận của Bàng thôi quan rồi.

    Mặt Bàng Tịch vẫn đầy ưu sầu nói:
    - Chu Đại Thường, theo như lời Địch Thanh và Trương Diệu Ca nói, là ngươi và Dương Đắc Ý rời đi trước, sau đó Mã công tử và bọn Đông Lai Thuận mới rời đi, sau cùng lại qua khoảng gần nửa canh giờ, ba người Địch Thanh mới rời khỏi Trúc Ca lâu?

    Chu Đại Thường nhịn không được nhìn về phía Lưu Tòng Đức, không biết trả lời thế nào. Lưu Tòng Đức có chút bất mãn nói:
    - Cứ theo sự thật mà nói, chẳng lẽ còn có người có thể đổi trắng thay đen sao?

    Chu Đại Thường lập tức nói:
    - Bàng đại nhân nói không sai.

    Bàng Tịch mỉm cười hỏi:
    - Ngươi và Dương Đắc Ý, còn có mấy người Đông Lai Thuận sau khi đến Trúc Ca lâu mới kết bạn với Mã công tử?

    Chu Đại Thường nói:
    - Không sai.

    - Vậy các ngươi vì cái gì mà trong gần một canh giờ vẫn còn quanh quẩn ở phụ cận Trúc Ca lâu, rề rà không đi? Mã công tử là vì muốn giảng chút đạo lý với Địch Thanh nên mới không rời đi. Còn ngươi và Dương Đắc Ý là vì cái gì chứ? Các ngươi bị Mã công tử trách mắng, nên ở phụ cận Trúc Ca lâu không chịu rời đi là vì lòng sinh bất mãn, muốn trả thù Mã công tử sao?

    Chu Đại Thường toát mồ hôi hột đầy trán, vội hỏi:
    - Sao có thể như vậy? Hại Mã công tử là Địch Thanh, chứ không phải bọn tiểu nhân.

    - Vậy các ngươi ở phụ cận Trúc Ca lâu để làm gì?
    Bàng Tịch truy hỏi.

    Chu Đại Thường không biết làm sao, Lưu Tòng Đức nháy nháy đôi mắt tam giác, nói:
    - Bọn họ chắc là hối hận vì lời nói và việc làm của mình ở Trúc Ca lâu, lúc này mới muốn tìm Mã Trung Lập tạ lỗi. Mã Trung Lập là người thích kết bạn, thấy bọn họ thành tâm sửa đổi nên kết giao với cùng bọn họ, mấy người này vừa gặp như đã quen lâu, ở quán trà bên cạnh Trúc Ca lâu uống trà, uống gần nửa canh giờ, cũng không có vấn đề gì a?

    Lưu Tòng Đức dù sao vẫn có chút nhanh trí, giải thích một phen, cơ hồ ngay cả mình cũng tin.

    Bàng Tịch trầm ngâm nói:
    - Vậy bạn bè rốt cuộc đến mức nào, là bạn nhậu hay là bạn bè tri tâm?

    Dương Đắc Ý nói tiếp:
    - Đương nhiên là bạn bè tri tâm, chúng tiểu nhân cảm thấy sự nhân nghĩa của Mã công tử, hiềm khích lúc trước hóa không, trở thành tri kỷ. Không ngờ Địch Thanh phát rồ, thậm chí ngay cả người như Mã công tử cũng hại, thật sự là tội ác tày trời.

    Ba người còn lại đều gật gù, vội vàng nói:
    - Đúng thế, đúng thế.

    Bàng Tịch nói với Trình Lâm:
    - Phủ doãn đại nhân, nếu như bọn họ đúng là bạn bè tri tâm, vậy lúc chọn lời chứng, cần phải xét lại, để ngừa bọn họ bị tình cảm bạn bè lấn át mà làm ra lời chứng bất lợi cho hung phạm.

    Lưu Tòng Đức giận tím mặt nói:
    - Bàng Tịch, ngươi rốt cuộc có ý gì? Chẳng nhẽ chứng minh bọn họ kết bạn với Mã Trung Lập chỉ nhằm làm cho lời chứng vô hiệu? Loại Thôi quan như ngươi, bổn quan dù có đến chỗ Thiên tử Thái hậu, cũng tuyệt đối không nhân nhượng!

    Trình Lâm nhíu mày, nói:
    - Bàng Thôi quan, những người này trước đây không biết nhau, về sau vừa quen đã thân nên mới kết bạn. Mà vụ án phát sinh chỉ là chuyện sau đó, những người này đứng ra làm chứng, cũng không có gì không ổn.

    Bàng Tịch gật đầu nói:
    - Phủ doãn đại nhân nói rất đúng. Vậy giờ hạ quan kể đầu đuôi câu chuyện lại một lần. Mấy người Chu Đại Thường và Mã Trung Lập chưa bao giờ gặp qua, sau đó ở trong Trúc Ca lâu, Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý nói năng xằng bậy, vũ nhục Trương Diệu Ca. Mã Trung Lập đứng ra can thiệp, đuổi hai người Chu, Dương ra ngoài. Hai người Chu, Dương lầm đường biết sai, hoàn toàn tỉnh ngộ, nên đứng ở dưới lầu chờ Mã công tử. Mã công tử đại nhân độ lượng, nhận lời xin lỗi, hơn nữa còn kết bạn với hai người. Đúng lúc này, ba người Đông Lai Thuận, Văn Thành, Cổ Thận Hành đi ngang qua... Nếu như bọn họ trước đây chưa từng gặp Mã công tử, chắc là thấy Mã công tử chính khí lẫm liệt, thật lòng hâm mộ, bấy giờ mới cùng kết bạn luôn?"

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile





    -------> Thảo luận <-------
    ---------> Góp ý <---------


    --------------------------
    Chú thích:

    (1),(2) Hàn Tín(韩信): (229 – 196 TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu, là một danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch: "cầm quân trăm vạn, đánh tất thắng, công tất lấy" thời Hán Sở tranh hùng, là một trong "tam kiệt nhà Hán" có công rất lớn giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.

    Theo sách Tây Hán chí thì Hàn Tín là người ở Hoài Âm (nước Sở). Cha mẹ mất sớm phải sống côi cút từ bé, nhà nghèo phải làm nghề câu cá. Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ. Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng. Có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng y. Mọi người thấy Tín bị nhục đều chê cười. Có hôm không câu được cá, Tín không có gì ăn, thường đi xin cơm của bà lão giặt lụa và hứa hẹn sau này làm nên sự nghiệp sẽ trả ơn ngàn vàng. Bà lão giặt lụa trách: "cậu là thanh niên trai tráng mà không lo nổi miếng ăn thì làm sao làm nên sự nghiệp, tôi giúp cậu chỉ vì thấy tội chứ có mong cậu báo đáp làm chi".
    Mọi người thấy thế đều cho ông là người thấp kém, hèn hạ.

    (3) Phủ doãn: thẩm phán, chánh án.

    (4) Ngục tốt: lính canh ngục.

    (5) Thôi quan: ở đây tương đương trợ lý, làm nhiệm vụ nghị án.

    (6) Kinh Đường mộc: Cục gỗ để vỗ lên bàn tạo âm thanh uy nghiêm.

    (7) Cửu Tự Ngũ Giám (九寺五监): là các ban ngành độc lập với chức năng trung ương, thành lập vào thời Đường. Về cơ bản là cùng cấp quan chức với Thượng thư Lục bộ, không có quan hệ lệ thuộc về pháp định với Lục bộ, nhưng chức quyền lại chồng chéo với Lục bộ rất nhiều, thực tế thì tồn tại quan hệ phân công cùng chế ước lẫn nhau. Lục bộ chủ quản chính lệnh, Cửu Tự Ngũ Giám phân biệt phụ trách các mặt sự vụ cụ thể.

    - Cửu Tự (九寺):
    + Thái Phủ tự: thuộc bộ Hộ — quản lý tiền tệ.
    + Ti Nông tự: thuộc bộ Bộ — quản lý lương thực.
    + Tông Chính tự: thuộc bộ Lễ — quản lý hoàng tộc.
    + Thái Thường tự: thuộc bộ Lễ — quản lý tế tự.
    + Quang Lộc tự: thuộc bộ Lễ — quản lý ăn uống.
    + Hồng Lư tự: thuộc bộ Lễ — quản lý ngoại giao.
    + Vệ Úy tự: thuộc bộ Binh — quản lý quân khí.
    + Thái Bộc tự: thuộc bộ Binh — quản lý xe ngựa.
    + Đại Lý tự: thuộc bộ Hình — quản lý tư pháp.
    Có một Thiết khanh, hai Thiếu khanh, Tự Thừa quản lý sự vụ hằng ngày.
    Mình không tìm được chức quan Tự Sự, chắc có lẽ thấp hơn Tự Thừa. Ai có thông tin thì góp ý mình nhé.

    - Ngũ Giám (五监):
    + Quốc Tử giám: thuộc bộ Lễ — học phủ tối cao trong hệ thống giáo dục, đồng thời quản lý bộ máy giáo dục của quốc gia.
    + Quân Khí giám: thuộc bộ Binh — chế tạo và sửa chữa vũ khí.
    + Thiếu Phủ giám: thuộc bộ Công — quản lý chi tiêu cung đình, chế tác quần áo cho Hoàng đế, Hoàng hậu, phi tần và quan lại.
    + Tương Tác giám: thuộc bộ Công — quản lý công trình bằng gỗ: cung điện, vách thành, thiết kế và xây dựng dịch sở.
    + Đô Thủy giám: thuộc bộ Công — quản lý sông ngòi, bến cảng, đê điều, thủy lợi, ngư nghiệp...

    (8) Đại Lý tự (大理寺): là một trong Cửu Tự, tương đương với toà án tối cao bây giờ. Quản lý Hình ngục, thẩm tra xử lí án kiện. Thời Tần, Hán là Đình Úy, thời Bắc Tề là Đại Lý tự, nhiều triều đại tiếp theo đều như vậy, đến đời Thanh là Đại Lý viện.

    (9) Quốc Tử giám (国子监): là cơ quan đào tạo giáo dục cấp trung ương tại các nước Á Đông thời phong kiến Nho giáo. Ở Trung Quốc, Quốc Tử giám đầu tiên xuất hiện sau thời nhà Tuỳ. Mỗi triều đại sau đó đều lập Quốc Tử giám tại kinh đô của mình - Trường An, Lạc Dương, Khai Phong, Nam Kinh. Kể từ thời nhà Minh thì có tới hai Quốc Tử Giám: một ở Nam Kinh và một ở Bắc Kinh.

    (10) Vệ Úy tự (卫尉寺): là một trong Cửu Tự, một cơ quan công sở của Trung Quốc xưa. Thời Bắc Tề thiết lập nên Vệ Úy tự, Vệ Úy đổi tên thành Vệ Úy Tự khanh hoặc Vệ Úy khanh, quan phụ tá gọi là Vệ Úy Thiếu khanh. Quản lý nghi trượng lều vải (vũ khí, quạt, dù, cờ... mà đội hộ vệ mang theo khi vua, quan lại đi tuần hành thời xưa). Đến thời Tần Hán thì đã thành chức quan nhàn tản. Kéo dài đến triều đại Nam Tống thì được nhập vào bộ Công.

    (11) 'Kiêm thính tắc minh, thiên tín tắc ám': nghe ý kiến nhiều phía, nhiều mặt mới có thể nhận thức chính xác sự vật, chỉ tin lời nói phiến diện đơn phương sẽ dẫn đến sai lầm.

    (12) 'Vu cáo phản tọa': lấy tội danh và hình phạt của người bị vu cáo ghép cho kẻ vu cáo.
    Lần sửa cuối bởi Thiên Kim, ngày 25-06-2012 lúc 10:46.
    ---QC---

    Sống không giận không hờn không oán trách
    Sống mỉm cười với thử thách chông gai
    Sống vươn lên theo nhịp ánh ban mai
    Sống hòa nhịp với những người chung sống
    Sống là động nhưng lòng luôn bất động
    Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
    Sống an vui danh lợi mãi coi thường
    Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến

    Hidden Content


  2. Bài viết được 28 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    pin,
  3. #12
    Thiên Kim's Avatar
    Thiên Kim Đang Ngoại tuyến Danh Đầu Hưởng Lượng Thông Ngữ thần thủ
    Ngày tham gia
    Aug 2010
    Đang ở
    Sài Gòn mộng mơ
    Bài viết
    774
    Xu
    1,950

    Mặc định

    Quyển Thượng: Nghê Thường Khúc ( 霓裳曲 )

    Tác giả: Mặc Vũ (墨武)
    Chương 9: Thái Hậu (太后)
    Dịch Giả: Thiên Kim (天金)
    Biên Dịch: CCD
    Biên Tập: Bella

    Nguồn: Hội Cú - Tàng Thư Viện
    Tụ nghĩa vô lợi kỷ - Xuất thư bất tư danh


    Chương 9: Thái Hậu

    Lưu Tòng Đức nghe thấy chướng tai sao sao ấy, nhưng trong lúc nhất thời không hiểu ý nghĩ của Bàng Tịch, đành phải trầm mặc. Ba người Đông Lai Thuận thấy Lưu Tòng Đức trầm mặc thì cho rằng hắn đã ngầm đồng ý nên gật đầu liên tục, nói:
    - Mặc dù Bàng đại nhân không có mặt ở nơi đó, nhưng phân tích lại như nhìn thấy tận mắt, tiểu nhân bội phục.

    Bàng Tịch nói tiếp:
    - Sau khi Mã công tử kết bạn với năm người các ngươi, thấy ba người Địch Thanh xuống lầu, Mã công tử rất có khí phách, muốn giao hảo với Địch Thanh nên tiến tới bắt chuyện. Không ngờ Địch Thanh phát điên đánh Mã công tử tơi tả. Chuyện xảy ra sau đó, các ngươi đã nói rất rõ ràng, vì thế không cần ta nói nhiều nữa.

    Mọi người sau khi nghe lời phân tích của Bàng Tịch, đều cảm thấy hành vi của vị Mã công tử này thật quái gở, còn có nha dịch cố nín cười. Bọn người Chu Đại Thường đành phải kiên trì đến cùng đáp:
    - Đúng là như thế.

    Bàng Tịch nhìn Lưu Tòng Đức hỏi:
    - Lưu đại nhân, suy luận lần này của hạ quan, không biết ông còn có nghi vấn gì không?

    Lưu Tòng Đức rất đau đầu, cảm thấy những lời vừa rồi của Bàng Tịch đúng là suy nghĩ cho bọn họ, đành nói:
    - Lần này ngươi nói không sai. Ta không có vấn đề.

    Mặt Bàng Tịch càng sa sầm, bắt bẻ nói:
    - Lưu đại nhân không có vấn đề, nhưng hạ quan lại có vấn đề.

    Lưu Tòng Đức thầm giật mình, thấy Bàng Tịch cầm mấy cuốn sổ sách từ trên bàn lên, không khỏi nghi hoặc khó hiểu. Bàng Tịch thản nhiên nói:
    - Đây là ghi chép mấy ngày nay mà hạ quan nhận được từ Thái Bạch Cư, Hỉ Lai Nhạc và Hội Tiên Lâu...

    Trình Lâm cau mày hỏi:
    - Hành động này của Bàng thôi quan có ý gì?

    Bàng Tịch nói:
    - Mã công tử quả nhiên hiếu khách, đều để lại dấu chân ở mấy tửu lâu này, dĩ nhiên tất cả là được người khác mời.

    Vừa nói hai mắt vừa lướt qua mặt của bọn người Chu Đại Thường, thấy sắc mặt những kẻ này đã tái cả lại. Bàng Tịch chậm rãi nói:
    - Mà người mời, chính là mấy người trước mặt: Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý, Đông Lai Thuận. Căn cứ vào ghi chép, Mã công tử vốn quan hệ rất thân với mấy người Chu Đại Thường. Nếu có người không tin, ông chủ tửu lâu đang đợi triệu ở hậu đường, không ngại kêu lên mà hỏi.

    Chu Đại Thường tuôn mồ hôi đầm đìa, cười lớn nói:
    - Chúng tôi...tin.

    Sắc mặt Bàng Tịch trầm xuống:
    - Bây giờ mới tin, e rằng đã muộn?

    Tiếp đó, y bước đến dâng sổ sách lên trước án của Trình Lâm. Bàng Tịch xoay người đối mặt với bọn người Chu Đại Thường, mặt ủ mày chau nói:
    - Vừa rồi ta hỏi đi hỏi lại nhiều lần, các ngươi đều nói chưa từng quen biết và giao thiệp với Mã công tử, nhưng sự thật nói rõ, các ngươi và Mã Trung Lập đã sớm là bạn bè. Các ngươi cố ý giấu giếm việc này là vì cớ gì?

    Bọn người Chu Đại Thường hoảng hốt lo sợ. Bàng Tịch xoay người kiến nghị với Trình Lâm:
    - Phủ doãn đại nhân, trải qua sự tra hỏi của hạ quan, ngay câu đầu tiên mà mấy người Chu Đại Thường đã nói sai, lời chứng về sau của chúng thật khó mà khiến cho người ta tin được nữa. Kính xin Phủ doãn đại nhân tra rõ toan tính của năm kẻ này. Nếu thật sự có hành vi vu cáo, kính xin đại nhân nghiêm trị, lấy làm răn đe!

    Giờ phút này, tuy mặt Bàng Tịch vẫn đầy ưu sầu, nhưng sắc mặt đã nhuộm lên phần chính khí, vô cùng nghiêm nghị.

    Mặc dù Lưu Tòng Đức không xem Phủ doãn Khai Phong ra cái gì, nhưng đó là nhờ ỷ vào quyền thế của Thái Hậu. Còn nếu luận về tài khôn khéo thì còn thua kém Bàng Tịch nhiều lắm. Lưu Tòng Đức có nhân chứng, Bàng Tịch đã sớm biết được. Bàng Tịch muốn từ trong dân chúng tìm được năm người chịu thẩm vấn trước công đường, không dễ chút nào, mà dù cho có tìm được đi chăng nữa cũng khó mà phân biệt thật giả. Dân chúng rất sợ sa vào trong tranh luận kéo dài, e rằng đến cuối cùng còn có thể ầm ĩ đến mức không thể vãn hồi.

    Bàng Tịch muốn tốc chiến tốc thắng, vì thế trước thả sau bắt, sau đó giải quyết tận gốc, trực tiếp đưa năm nhân chứng của Lưu Tòng Đức vào chỗ vạn kiếp bất phục. Y dùng thủ đoạn trực tiếp như thế là muốn cảnh cáo Lưu Tòng Đức, phủ Khai Phong không phải là nơi mà tên hoàng thân ngoại thích như gã có thể một tay che trời.

    Trình Lâm nhìn sổ sách trước mặt, lật cũng không thèm lật, trầm giọng hỏi:
    - Chu Đại Thường, Bàng thôi quan nói có đúng không?

    Hai chân Chu Đại Thường run rẩy, quay qua nhìn Lưu Tòng Đức, Bàng Tịch thở dài nói:
    - Chu Đại Thường, ngươi đừng có lúc nào cũng nhìn về phía Lưu đại nhân. Người không biết còn tưởng rằng ngươi bị ông ấy sai khiến đó, vậy chẳng phải sẽ làm vấy bẩn danh dự của Lưu đại nhân sao?

    Tuy Lưu Tòng Đức có chút nhanh trí, nhưng lúc này cũng rối loạn cả lên. Hắn vội quát:
    - Bàng Tịch, ta không liên quan gì tới bọn chúng, ngươi đừng ngậm máu phun người!

    Bàng Tịch lập tức nói:
    - Nếu Lưu đại nhân đã nói không có quan hệ gì tới bọn ngươi, vậy bọn ngươi rốt cuộc bị ai xúi giục, còn không mau thành thật khai ra!

    Bọn Chu Đại Thường hoàn toàn sụp đổ. Bọn chúng được Lưu Tòng Đức dặn dò đến đây vu cáo Địch Thanh, nhưng giờ Lưu Tòng Đức lại quay lưng vứt bỏ bọn họ, vậy bọn họ còn biết dựa vào ai đây?

    Bàng Tịch tranh thủ rèn sắt khi còn nóng, nói tiếp:
    - Chẳng lẽ các ngươi tức tối vì Địch Thanh được Trương Diệu Ca giữ lại nên thừa dịp này hãm hại hắn? Nếu như các ngươi chủ động nhận tội, niệm tình các ngươi vi phạm lần đầu, không chừng Phủ doãn đại nhân sẽ xử nhẹ cho.

    Mặt Dương Đắc Ý như đưa đám:
    - Phủ doãn đại nhân, chúng tiểu nhân sai rồi....

    Lời hắn còn chưa dứt, ngoài nha môn chợt có nha lại xướng lên:
    - La đại nhân, Mã đại nhân đến…

    Lưu Tòng Đức bỗng đứng bật dậy như có lò xo gắn vào mông, vui mừng nói:
    - Mau mời.

    Lòng hắn rối như tơ vò, vào lúc này cứ tưởng nơi đây là phủ đệ của gã. Trình Lâm bất mãn, song vẫn bảo trì vẻ ổn trọng, nói:
    - Mời vào phủ nha.

    Trình Lâm vốn định đứng dậy nghênh đón, nhưng thấy Bàng Tịch nhìn mình, trong mắt muôn vàn hàm ý, mặt liền đỏ lên, lập tức ngồi xuống.

    Ngoài nha có hai người đi vào. Một người phong lưu phóng khoáng, nhưng mặt có vẻ giận dữ. Người còn lại mặt trắng không râu, vẻ mặt kiêu căng.

    Trình Lâm nhận ra người phong lưu phóng khoáng chính là Mã Quý Lương, phụ thân của Mã Trung Lập, cũng chính là cháu rể Thái Hậu, hiện giờ giữ chức Đãi chế của Long Đồ các. Còn người có vẻ mặt kiêu căng kia chính là đệ nhất đại thái giám đương triều, Cung Phụng - La Sùng Huân.

    Trình Lâm biết Mã Quý Lương và La Sùng Huân đều là tâm phúc của Thái Hậu, vốn định tỏ vẻ thân mật, nhưng dù sao đệ nhất đại thái giám đương triều, quyền vị cũng không bằng Phủ doãn Khai Phong, nếu như hắn nịnh nọt quá mức thì sẽ làm cho thuộc hạ xem thường, vì vậy chỉ ngồi yên một chỗ chắp tay nói:
    - Hai vị đại nhân đến đây, không biết có chuyện gì?

    La Sùng Huân cất giọng the thé nói:
    - Chúng ta nghe nói nơi này thẩm án, nên tới đây nghe thử để tránh có người ăn đút lót trái với luật pháp, phán sai bản án. Trình đại nhân, án này rốt cuộc như thế nào rồi?

    Trình Lâm cười lớn nói:
    - Đang thẩm tra, La Cung Phụng nếu như có hứng thú, có thể ở một bên nghe xem. Người đâu! Lấy ghế.

    Nha lại đã chuẩn bị xong hai cái ghế dựa, La Sùng Huân đỉnh đạc ngồi xuống. Lưu Tòng Đức ở bên cạnh thì thầm kể lại hết thảy mọi việc cho Mã Quý Lương. Mã Quý Lương thấy Địch Thanh, hận không thể bóp chết hắn, nghe vậy lại càng tức giận, cất tiếng:
    - Trình đại nhân, ta cảm thấy việc thẩm tra bản án này thật sự có vấn đề. Dù nói thế nào đi chăng nữa cũng là con ta bị thương nặng, vậy mà lại có người chẳng phân biệt được trắng đen, không ngờ đặt toàn bộ tinh lực trên người không liên quan. Quả thực khiến bổn quan rất thất vọng.

    Trình Lâm giải thích:
    - Lời này của Mã đại nhân sai rồi. Đã có nhân chứng thì phải thẩm tra phân biệt rõ ràng. Như vậy mới không phụ sự coi trọng của Thánh Thượng và sự tin cậy của Thái Hậu. Hơn nữa, gương sáng trong trời đất, pháp lý phải sáng tỏ, hết thảy cần dựa theo luật mà làm. Mấy người Chu Đại Thường đứng ra tố giác Địch Thanh, bổn quan theo luật dò hỏi, Bàng thôi quan giúp đỡ suy đoán, sao có thể nói đặt toàn bộ tinh lực trên người không liên quan được?

    La Sùng Huân lên tiếng bác bỏ:
    - Phủ doãn đại nhân, nhưng ta cảm thấy Đãi chế nói không sai, chuyện trước mắt đúng là như vậy. Địch Thanh đánh người, hơn nữa Mã Trung Lập có thể nằm liệt cả đời. Hung đồ như vậy, nếu không nghiêm trị mới không xứng với sự coi trọng của Thái Hậu! Ngươi nên mau mau định tội cho Địch Thanh đi.

    Hai người La, Mã vừa đến, lập tức tiến hành đánh võ mồm. Mục đích rõ ràng là muốn tạo áp lực cho Trình Lâm. Không ngờ Trình Lâm lại im lặng, Bàng Tịch ở một bên cất tiếng trả lời:
    - Chuyện của phủ Khai Phong đã có người của phủ Khai Phong xử lý, La đại nhân sai khiến như thế, không hợp với luật.

    La Sùng Huân vốn là đệ nhất Thị thần(1) nội cung, được Thái Hậu coi trọng. Những năm gần đây, dù là trọng thần của Lưỡng Phủ cũng đều khách khí đối với hắn, dần dần dưỡng thành thói ngang tàng. Thấy một tên Thôi quan của phủ Khai Phong lại dám phản bác hắn, không khỏi giận dữ nói:
    - Bàng Tịch, sao ngươi dám vô lễ với ta như thế?
    (1) Thị thần: cận thần bên cạnh Hoàng thượng.

    Bàng Tịch bình tĩnh nói:
    - Hạ quan chỉ phối hợp cùng làm việc công, theo luật xử án, không thẹn với lương tâm, có gì mà ‘dám hay không dám’ chứ? Gia pháp của tổ tông bản triều có dạy, 'Ngoại thích không được tham gia chính sự, hoạn quan không được nắm quyền’. Trước mắt đang thẩm vấn đại án sống chết, hai vị đại nhân theo lệ cần phải tránh đi, không được làm phiền phủ Khai Phong xử án. Trình đại nhân coi trọng hai vị đại nhân nên mới bố trí chỗ ngồi mời hai vị đại nhân dự thính. Nhưng dự thính thì được, còn nếu thao túng việc phủ Khai Phong xử án, chẳng phải làm hỏng gia pháp của tổ tông hay sao? Nếu La đại nhân không hài lòng chỗ nào đó, có thể cùng hạ quan vào nội cung hỏi ý kiến của Thánh Thượng và Thái Hậu, rồi sau đó hãy quyết định hạ quan đúng hay là sai.

    Khuôn mặt trắng nõn của La Sùng Huân sung huyết đỏ như trái cà chua. Hắn căm hận nói:
    - Giỏi, giỏi, giỏi lắm!

    Mặt Bàng Tịch lại hiện lên vẻ u sầu, nói:
    - Nếu La đại nhân không có ý kiến, hạ quan cảm thấy Trình đại nhân tiếp tục thẩm án được rồi.

    Trong lòng Trình Lâm có chút xấu hổ, nhưng đối với khí tiết không sợ quyền uy của Bàng Tịch lại có mấy phần kính nể. Hắn liền vỗ kinh đường mộc nói:
    - Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý, Văn Thành, Đông Lai Thuận, Cổ Thận Hành, tại sao năm người các ngươi vu oan cho Địch Thanh? Còn không mau thành thật trả lời!

    Bọn Chu Đại Thường thấy La Sùng Huân đến đây mà cũng không bảo vệ được bọn chúng, mồ hôi tuôn ra như mưa. Vẻ mặt Chu Đại Thường như đưa đám đáp:
    - Trình phủ doãn, chúng tôi bất mãn Địch Thanh nổi trội hơn chúng tôi, nên mới vu cáo hãm hại hắn. Còn tình hình lúc đó rốt cuộc như thế nào, chúng tôi cũng không biết rõ.

    Trình Lâm hừ lạnh một tiếng,
    - Năm người Chu, Dương vu hãm người khác, làm loạn bản án, phạt mỗi người tám mươi trượng. Đem ra ngoài xử trí.

    Bọn Chu Đại Thường thấy Lưu Tòng Đức mặt trầm như nước, mặc dù oan uổng nhưng cũng không dám nói ra, thầm nghĩ ráng chịu tám mươi trượng, tránh khỏi tai họa cũng coi như may mắn lắm rồi. Cả đám ủ rũ cúi đầu bị áp giải ra trước công đường, ngay tại đó chịu phạt. Dân chúng đứng xem ngoài nha môn không khỏi hò reo khoái chí.

    La Sùng Huân nghe tiếng hèo ‘bôm bốp’ vang lên không dứt, giống như bị tát vào mặt. Hắn thầm nghĩ, Bàng Tịch, Trình Lâm các ngươi đừng vội đắc ý, sau này đừng để cho ta nắm được sơ hở, bằng không, ta nhất định khiến các ngươi sống không bằng chết. Tào Lợi Dụng là Xu Mật sứ, quyền to hơn các ngươi không biết bao nhiêu lần, còn không tránh được bị chúng ta giết chết. Vừa nghĩ đến đây, La Sùng Huân nở nụ cười nham hiểm.

    Đợi bọn người Chu Đại Thường được giải xuống, Mã Quý Lương bất mãn nói:
    - Phủ doãn đại nhân, tuy hiện giờ nói bọn người Chu Đại Thường sai, nhưng không thể miễn trừ tội ác của Địch Thanh. Bổn quan vẫn hi vọng Phủ doãn đại nhân đặt tinh lực vào người Địch Thanh. Tất nhiên, đây chỉ là hi vọng, cụ thể làm như thế nào, bổn quan không dám sai khiến.

    Hắn thấy cái mặt khó ưa của Bàng Tịch, trong lòng thầm hận, nhưng chọn từ cũng thận trọng hơn nhiều.

    Trình Lâm nói:
    - Nếu đúng như lời Địch Thanh và Trương Diệu Ca nói, Địch Thanh ra tay đánh người cũng là bất đắc dĩ...

    Lưu Tòng Đức căm giận nói:
    - Chỉ một câu bất đắc dĩ là có thể đánh người sao? Địch Thanh chỉ là tặc quân, Trương Diệu Ca là một ả ca kỹ, lời của hai tên này sao có thể tính chứ?

    Bàng Tịch liền phản bác:
    - Mong Tự Sự đại nhân thận trọng trong lời nói một chút. Ông nghĩ xem, cấm quân trong thiên hạ tám mươi vạn người, ông một câu ‘tặc quân’ liền đóng băng tâm ý của tướng sĩ cấm quân trong cả nước. Còn Trương Diệu Ca, tuy là ca kỹ nhưng luật lệ bản triều có quy định ca kỹ không được làm chứng sao?

    Lưu Tòng Đức suýt chút nữa bị Bàng Tịch làm cho giận điên lên, Mã Quý Lương cắn răng nói:
    - Bàng Tịch, theo bổn quan biết, Trương Diệu Ca cũng không biết tình hình bên ngoài Trúc Ca lâu lúc đó. Địch Thanh dẫu sao cũng là người hành hung cho nên lời hắn nói không thể cho là đúng. Nếu muốn làm rõ đúng sai khi đó, phải có người khác làm chứng. Nếu như phủ Khai Phong không có ai đứng ra làm chứng, chúng ta có thể cung cấp nhân chứng thêm lần nữa.

    Bàng Tịch do dự trong lòng. Vì tình cảnh lúc đó hỗn loạn, hắn đã tìm rất nhiều người nhưng những người đó cũng khó mà kể lại hoàn chỉnh tình hình lúc đó được. Còn nhân vật mấu chốt là Thượng Thánh và người trung niên mập trắng kia lại biến mất không thấy tăm hơi. Bàng Tịch không sợ La Sùng Huân, nhưng nếu ở phương diện nhân chứng xuất hiện sai sót, bị đám người La Sùng Huân nắm thóp, e rằng sẽ bị chết thảm không toàn thây. Vì thế ở phương diện này, hắn chưa tìm được người nào thích hợp đứng ra làm chứng cả.

    Khi Bàng Tịch còn đang chìm trong đắn đo thì Trình Lâm nói:
    - Phủ Khai Phong đúng là vẫn chưa tìm được nhân chứng mấu chốt...

    Mã Quý Lương lập tức nói:
    - Vậy thì chúng ta có thể cung cấp mấy người. Khi đó có không ít gia đinh Mã phủ, đủ để làm chứng chuyện đã phát sinh.

    Bàng Tịch âm thầm cười lạnh, nghĩ thầm nếu đám người các ngươi cung cấp nhân chứng, không ngoài khả năng sẽ diễn lại vở kịch của bọn Chu Đại Thường. Cứ như vậy diễn tới diễn lui thì khi nào mới kết thúc được. Nhưng lần này hắn không còn cách nào từ chối, đang lúc khó xử thì ngoài nha môn đột nhiên có người lên tiếng:
    - Ai bảo phủ Khai Phong không có người làm chứng?

    Mọi người đều biến sắc, không biết lúc này tên nào có lá gan lớn đến như vậy, lại dám đứng ra làm chứng cho Địch Thanh?

    Lời còn chưa dứt, ngoài nha môn có hai người không đợi cho phép mà xông thẳng vào!

    Trình Lâm nhíu mày, thầm nghĩ ai có lá gan lớn như vậy, dám coi phủ Khai Phong như cửa thành, tùy ý ra vào! Cho dù là La Sùng Huân đến phủ Khai Phong thì cũng không dám hung hăng càn quấy đến thế!

    Trình Lâm đang cau mày, nhưng ngẩng đầu nhìn thấy hai người vừa vào cửa, bỗng nhiên đứng dậy, vội vội vàng vàng bước nhanh từ sau án ra nghênh đón. Hắn thi lễ thật sâu với một người trong đó nói:
    - Bát Vương gia đến đây, hạ quan không kịp tiếp đón từ xa, mong người thứ tội.

    Mới vừa rồi Trình Lâm đa lễ với La Sùng Huân, Bàng Tịch cảm thấy hơi bất mãn, nhưng khi nhìn thấy người này thì cũng phải bước theo sau Trình Lâm thi lễ. Không chỉ Trình Lâm, Bàng Tịch cung kính làm lễ, ngay cả bọn La Sùng Huân khi thấy người đó đến, cũng đành phải đứng dậy thi lễ, không dám thiếu lễ nghĩa.

    Tất cả mọi người rất kỳ quái, Bát Vương gia đến nơi này làm gì? Y giống như muốn can dự vào bản án của Địch Thanh. Địch Thanh có quan hệ với Bát Vương gia từ khi nào?

    Địch Thanh cũng cảm thấy kỳ quái, bèn liếc nhìn người mà Trình Lâm bái kiến, đó là một người ăn mặc sạch sẽ. Người này thật sự quá sạch sẽ, quần áo ngay ngắn giống như được đánh qua sáp. Móng tay y được cắt tỉa chỉnh chu đều đặn, tóc cực kỳ bóng mượt, chỉ sợ con ruồi đậu vào cũng phải trượt xuống té chết. Một người sạch sẽ như vậy, khiến người đứng trước mặt y đều bị ảnh hưởng mà muốn đi soi gương xem mặt mình rửa sạch chưa.

    Địch Thanh biết Bát Vương gia tên là Triệu Nguyên Nghiễm, cũng chính là Bát hoàng thúc của đương kim Thánh Thượng, nhưng lại chưa bao giờ nghĩ tới Bát Vương gia là một người như vậy. Địch Thanh ít nhiều cũng biết chút chuyện về Bát Vương gia. Y chính là con thứ tám của Thái Tông. Thời Thái Tông tại vị, y đã được phong làm Chu vương. Sau khi Chân Tông - Triệu Hằng lên ngôi, lại phong thêm cho Triệu Nguyên Nghiễm làm Tào quốc công, bái Tể tướng, giao giám sát Thái Bảo(2), tiến tước Vinh vương, phong quang vô cùng, nhất thời không ai bằng y.
    (2) Thái Bảo: chức quan thấp nhất trong hàng tam công: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo

    Về sau Triệu Trinh lên ngôi, Thái Hậu chấp chính, Triệu Nguyên Nghiễm thân là nguyên lão tam triều, tuy rằng tuổi tác chỉ mới bốn mươi, nhưng vì địa vị cực cao, lại được Thánh Thượng bái làm Thái Úy(3), Thượng thư lệnh(4) kiêm Trung thư lệnh(5). Trong triều, ngoại trừ Thái Hậu và Hoàng đế ra, nếu nói thân phận chí tôn, không ai có thể vượt qua Triệu Nguyên Nghiễm. Cho dù là người uy danh hiển hách trong Lưỡng Phủ, Tam Nha, Tam Quán(6), Tam Ban, nhưng nếu so về độ sùng bái, cũng khó mà đuổi kịp cái bóng của Triệu Nguyên Nghiễm.
    (3) Thái Uý: chức quan thời xưa, quản lý về quân sự.

    Song, người như vậy đến phủ Khai Phong làm gì chứ? Không ai hiểu được, chỉ thấy vị trí cao nhất vốn là của La Sùng Huân, đã sớm có người bố trí lại ghế để mời Triệu Nguyên Nghiễm ngồi xuống, dâng lên trà thơm. La Sùng Huân mặc dù không muốn nhưng cũng phải đổi chỗ, trong mắt lộ ra vẻ ghen ghét.

    Sau một hồi bận rộn, phủ nha cuối cùng yên tĩnh trở lại. Trình Lâm trông thấy Địch Thanh đang quỳ mới nhớ ra mình còn phải thẩm án. Đành phải cười xòa nói:
    - Không biết Bát Vương gia giá lâm, có gì căn dặn?

    Bát Vương gia không nói, chỉ nhìn chăm chú vào đôi tay mình, bàn tay này thanh tú sạch sẽ, ngón tay thon dài. Cổ họng Trình Lâm hơi ngứa nhưng không dám ho, đành phải nhìn về phía người đứng bên cạnh Bát Vương gia. Người này tóc trắng như cước, lưng còng, nếp nhăn trên mặt có thể làm tấm chà quần áo, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể chuẩn bị tẩy sạch cho Bát Vương gia.

    Tự dưng có suy nghĩ này, Trình Lâm muốn cười nhưng lại không dám, mặt càng thêm cung kính hỏi:
    - Triệu quản gia, không biết Bát Vương gia tới đây, có chuyện gì không?

    Trình Lâm biết lão nhân này họ Triệu, khi Bát Vương gia vừa sinh ra thì lão nhân đã là quản gia của Vương phủ. Trình Lâm là người cẩn trọng nên không muốn đắc tội với bất cứ ai.

    Triệu quản gia ho khan vài tiếng, cất giọng khàn khàn nói:
    - Vương gia mấy ngày nay không thoải mái.

    Trình Lâm không hiểu cho lắm, Bàng Tịch thì yên lặng theo dõi diễn biến. Tất cả mọi người đang nghĩ, hóa ra người đã già rồi, nhất định sẽ hồ đồ. Vương gia không thoải mái cũng không đến nỗi tới phủ Khai Phong xem bệnh chứ?

    Trình Lâm đành phải nói:
    - Vậy Vương gia...cần phải...

    Vốn định đề nghị Triệu Nguyên Nghiễm nghỉ ngơi, nhưng lại cảm thấy hai chữ "cần phải" đường đột quá mức, hắn chỉ là Phủ doãn thì có tư cách gì nói với Vương gia những lời này? Trán liền chảy mồ hôi, cho dù là thẩm án Trình Lâm cũng không tốn sức đến thế.

    Bàng Tịch ở bên cạnh vội nói:
    - Thế không biết có mời thái y hay chưa? Vương gia nếu không thoải mái, cần phải nghỉ ngơi nhiều hơn.

    Trình Lâm hùa theo:
    - Đúng vậy, đúng vậy.

    Triệu quản gia thở dài:
    - Trình phủ doãn, ông cũng biết, những năm gần đây, Vương gia bị một loại quái bệnh, lúc thì minh mẫn, lúc thì hồ đồ.

    Trình Lâm nhíu mày, chỉ "A" một tiếng. Loại chuyện như vậy, hắn không dám hỏi tiếp. Triệu quản gia mở miệng không cố kỵ, nhưng mỗi một câu nói của mình, Trình Lâm đều phải uốn lưỡi bảy lần trước khi cất tiếng.

    Hóa ra Triệu Nguyên Nghiễm đúng là có bệnh, là bệnh điên! Từ lúc Triệu Trinh đăng cơ, rồi Lưu thái hậu buông rèm chấp chính, Triệu Nguyên Nghiễm trở nên có chút không bình thường. Y ủ rủ trong nhà, cả năm hiếm khi ra khỏi Vương phủ. Có lời đồn rằng, Bát Vương gia e sợ Thái Hậu nghi kỵ cho nên không dám ra khỏi cửa. Chẳng bao lâu sau, tính tình của Triệu Nguyên Nghiễm lúc thì cáu kỉnh, lúc thì an tĩnh. Y có thể mới cùng ngươi nói cười vui vẻ, nhưng chớp mắt sau liền gọi gia đinh đánh ngươi tám mươi trượng.

    Y là Vương gia, hơn nữa còn giống một nửa tên điên, vì vậy tất cả mọi người đều kính trọng nhưng không dám gần. Trình Lâm cũng không ngoại lệ. Lúc này, trông Bát Vương gia rất an tĩnh, nhưng người hiểu rõ tính khí của Bát Vương gia đều biết rằng điều này có lẽ chỉ là chút bình an trước cơn bão tố.

    Vì Địch Thanh đang quỳ nên vừa khéo có thể nhìn thấy gương mặt cúi xuống của Bát Vương gia. Hắn cũng có chút mơ hồ, thậm chí bắt đầu hoài nghi câu nói mới vừa nghe được là ảo giác. Nhưng vào lúc này, Bát Vương gia đột nhiên nháy mắt mấy cái với Địch Thanh, sau đó lại cúi đầu xuống. Địch Thanh nghệch mặt ra, không dám khẳng định đó có phải là Bát Vương gia đang ra hiệu với hắn hay không. Hắn có chút tự giễu, Bát Vương gia thế nào lại đi chào hỏi hắn chứ?

    Triệu quản gia trầm mặc một lúc lâu, rồi nói tiếp:
    - Lúc Vương gia hồ đồ, thỉnh thoảng sẽ xuất phủ. Nhưng bởi tính cách khiêm tốn nhã nhặn, nên chưa bao giờ gây hấn với người bên ngoài. Thật không nghĩ đến lại có người dám hỗn láo với Vương gia.

    Mọi người đều nghĩ, không biết tên nào ăn phải mật báo, dám láo xược với Triệu Nguyên Nghiễm chứ? Nhưng việc đó có quan hệ gì với bản án này nhỉ? Lão già này chạy đến nơi đây phàn nàn, đúng là hồ đồ cực độ rồi! Nếu không phải người nói chuyện là quản gia của Bát Vương gia, chỉ sợ đã sớm bị đánh đuổi ra khỏi Nha môn của phủ Khai Phong.

    Trình Lâm cau mày hỏi:
    - Ai dám vô lễ với Vương gia?

    Triệu quản gia không trả lời câu hỏi của Trình Lâm, tự biên tự diễn nói tiếp:
    - Người này chẳng những vô lễ với Vương gia, còn dám kêu người đánh Vương gia. Đầu của Vương gia bị đánh đến nỗi chảy cả máu.

    Mọi người đều kinh hãi, Mã Quý Lương bên cạnh cười lạnh nói:
    - Xem ra phủ Khai Phong loạn thật rồi. Lại có người dám đánh Vương gia, thật sự coi trời bằng vung? Trước là có tên Địch Thanh gây rối, sau lại có người đánh Vương gia, không coi hoàng thân quốc ra cái gì cả. Trình phủ doãn, ngươi quản lý phủ Khai Phong rất tốt." Hắn sớm đã bất mãn với Trình Lâm nên ngấm ngầm châm chọc.

    Trình Lâm cũng có chút luống cuống, vội hỏi:
    - Sau đó thế nào? Có bắt được tên hung đồ kia chưa?

    Khuôn mặt già nua của Triệu quản gia giật giật, nói tiếp:
    - Chưa, vẫn còn thong dong ở kinh thành. Nếu không phải có người đứng ra cứu Vương gia, e rằng Vương gia bị tên hung hồ đó đánh chết thật rồi.

    Mọi người đều lộ ra vẻ mặt không thể tưởng tượng nổi, La Sùng Huân thét to:
    - Tốt lắm, phủ Khai Phong không ngờ đã xảy ra chuyện lớn như vậy, Thái Hậu cũng không biết rõ tình hình. Chúng ta nhất định phải báo cho Thái Hậu biết chuyện này.

    Hắn bỗng nhiên đứng dậy, nhưng bị Mã Quý Lương kéo lại. Mã Quý Lương thấp giọng nói:
    - La đại nhân, cũng nên nghe xem cuối cùng ra sao mới được.

    Mã Quý Lương vui sướng khi người khác gặp họa. Lưu Tòng Đức cũng hưng phấn đến nỗi cái mũi hèm rượu đỏ bừng, liếc nhìn Trình Lâm và Bàng Tịch, nói to:
    - Triệu quản gia, hung đồ ấy rốt cuộc là ai, nói ra đi, chúng ta giúp ông tìm Thái Hậu làm chủ. Đã có người không quản được chuyện này, vậy thì phải đổi người khác quản lý thôi.

    Vẻ mặt Triệu quản gia đầy ưu sầu nói:
    - Người cứu Vương gia hiện đang ở phủ Khai phong, nếu không thì ta và Vương gia đến đây làm gì cơ chứ?

    Mọi người nghe lão đề cập vào điểm chính, rất đỗi kinh ngạc, nhìn khắp mọi nơi, nhao nhao hỏi:
    - Là ai cứu Vương gia?

    Triệu quản gia run rẩy đi vài bước, giơ tay lên, đầu ngón tay vẽ ra một đường cong trên không trung, sau đó dừng ở trước chóp mũi của một người:
    - Người cứu Vương gia chính là...hắn!

    Mọi người thuận theo hướng ngón tay chỉ mà nhìn tới, tròng mắt thiếu chút rớt ra ngoài. Bọn người Mã Quý Lương giống như bị đạp một đạp vào mặt. Người mà Triệu quản gia chỉ không phải ai xa lạ, chính là Địch Thanh, người vẫn đang quỳ gối trước công đường.

    Địch Thanh cứu Bát Vương gia? Làm sao như vậy được? Địch Thanh cũng ngây ngẩn cả người, suy nghĩ mẻ đầu sứt trán cũng không rõ mình đã cứu Bát Vương gia khi nào?

    Tim Mã Quý Lương như bị điện giật, hồi lâu mới nói:
    - Triệu quản gia, Sao lạ vậy? Chắc ông nhận lầm người rồi?

    La Sùng Huân lập tức nói:
    - Cho dù không nhận lầm người, Địch Thanh cứu Vương gia là một chuyện, đánh người là chuyện khác, há có thể nhập một mà nói!

    Lưu Tòng Đức dụi đôi mắt tam giác nói:
    - La đại nhân nói rất đúng!

    Mắt Bàng Tịch lóe lên, ở bên cạnh hỏi:
    - Triệu quản gia, vậy là ai đánh Bát Vương gia thế? Người này gan to bằng trời, đánh Vương gia chính là tội chết.

    Cánh tay Triệu quản gia lại rung rẩy. Mọi người thấy thế, không dám tin người đánh Vương gia cũng đang ở nha môn phủ Khai Phong. Đợi cánh tay ấy dừng lại, mọi người thuận theo hướng ngón tay chỉ mà nhìn tới, liền ngây ngẩn cả người tập hai. Người mà Triệu quản gia chỉ vào, không ngờ lại là người phong lưu tiêu sái - Mã Quý Lương.

    Mã Quý Lương vẫn còn trấn tĩnh, thản nhiên nói:
    - Triệu quản gia, đây là phủ Khai Phong, không phải muốn nói hàm hồ cái gì cũng được. Không lẽ ý của ông là ta đánh Bát Vương gia sao?

    Hắn không có làm, tất nhiên sẽ không sợ.

    Triệu quản gia buông cánh tay xuống, chậm rãi nói:
    - Không phải ngươi, nhưng người đánh Vương gia lại là con ngươi.

    Cơ mặt Mã Quý Lương co giật, thất thanh nói:
    - Điều này sao có thể? Khuyển tử dù gan có lớn, cũng nào dám vô lễ với Vương gia?

    Triệu quản gia lạnh lùng nói:
    - Đúng là hắn không có vô lễ với Vương gia, hắn chỉ muốn đánh chết Vương gia. Ngày đó, Địch Thanh và Mã Trung Lập ở trước Trúc Ca lâu, Vương gia đúng lúc đi ngang qua, bị Mã Trung Lập kéo vào trong ra sức đánh. Nếu không nhờ Địch Thanh, chỉ sợ Vương gia sớm đã chết oan chết uổng rồi.

    Tim mọi người đập thình thịch. Mặt Mã Quý Lương như tro tàn, mồ hôi từ trán chảy xuống khóe miệng, cơ mặt giật giật không ngừng:
    - Ông nói là... tên điên kia...

    Đột nhiên im miệng, mặt lộ vẻ kinh hoảng.

    Triệu quản gia rốt cuộc nói:
    - Ngươi nói không sai, tên điên mà Mã Trung Lập đánh trên đường, chính là Bát Vương gia!

    Nha môn phủ Khai Phong bỗng trở nên yên tĩnh trước nay chưa từng có. Mọi người trợn mắt há hốc mồm, muốn không tin nhưng không thể không tin.

    Mã Trung Lập đánh tên điên kia, không ngờ lại là Bát Vương gia?

    Địch Thanh đột nhiên ngẩng đầu lên, cũng khó có thể tin. Bên ngoài công đường đã trở thành một vùng ồn ào náo nhiệt. Triệu quản gia nói tiếp:
    - Cho nên hôm nay Vương gia là nhân chứng của phủ Khai Phong, cũng là nhân chứng của Địch Thanh! Trình phủ doãn, án kiện đánh Vương gia này, không biết nên xử lý ra sao?

    Tim Mã Quý Lương đập dồn dập đến nỗi muốn ngừng cả lại. Không người nào dám nói tiếp. Thật lâu sau, La Sùng Huân thở ra một hơi, nói:
    - Triệu quản gia, những điều đó chỉ là lời một phía của ông.

    Triệu quản gia phẫn nộ hỏi:
    - La đại nhân có ý gì? Chẳng lẽ nói ta bịa đặt vô căn cứ hay sao?

    La Sùng Huân thản nhiên nói:
    - Triệu quản gia, khi nãy ông vừa nói, Vương gia bị một loại quái bệnh, lúc thì thanh tỉnh, lúc thì hồ đồ. Xin hỏi, khi bị đánh ở trước Trúc Ca lâu, Vương gia là thanh tỉnh hay hồ đồ?

    Lời hắn hỏi ẩn chứa thâm ý, Triệu quản gia nếu nói Bát Vương gia thanh tỉnh, điều này tuyệt đối không có khả năng, nhưng muốn nói Bát Vương gia hồ đồ, hắn càng có cớ phản bác. Thử hỏi lời nói của một người hồ đồ, làm sao có thể khiến người ta tin tưởng cho được?

    Bàng Tịch nhíu mày, hiểu rõ thâm ý trong đó. Triệu quản gia chưa kịp mở miệng, bỗng có một giọng nói vang lên:
    - Ngươi muốn nói ta có bệnh sao?

    Giọng nói này cực kỳ uy nghiêm, rất có chừng mực. La Sùng Huân rùng mình, bởi vì người lên tiếng là Bát Vương gia. Bát Vương gia rốt cuộc ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào La Sùng Huân, vẻ mặt nghiêm túc.

    Người nào cũng cho rằng thần trí của Bát Vương gia không bình thường, nhưng có ai dám nói y có bệnh chứ? La Sùng Huân cũng không dám, đành phải nói:
    - Hạ quan chưa bao giờ có ý nghĩ như thế.

    - Vậy là ngươi không tin ta bị đánh? Ngươi cho rằng...ta đang nói phét?
    Bát Vương gia lại hỏi. Y phát âm rõ ràng, giống như đã khôi phục lại bình thường.

    La Sùng Huân ngậm miệng, chỉ có thể lắc lắc đầu. Bát Vương gia thấy La Sùng Huân không đáp, đảo mắt nhìn xung quanh nói:
    - Vậy ai cho rằng ta nói phét?

    Không ai lên tiếng. Trình Lâm to đẩu ra, bỗng nảy ra ý hay vội la lên:
    - Nếu bản án có biến, bản phủ cần phải thẩm đạc lại lần nữa, án này tạm dừng, sẽ xử lý sau, thối đường!

    Trình Lâm không có biện pháp thẩm tra tiếp, đành phải thối đường. Một bên là Bát Vương gia, một bên là thân tín của Thái Hậu, bên nào hắn cũng không dám đắc tội. Hắn vốn muốn hi sinh Địch Thanh, nhưng tình thế xoay chuyển một trăm tám mươi độ, Trình Lâm tạm thời không có biện pháp. Trình Lâm nói thối đường, cũng không có ai phản đối. Lúc Triệu quản gia đi, bồi thêm một câu:
    - Trên đời này, người tốt ở lao phòng, ác nhân thì tiêu dao a!

    Trình Lâm không có cách gì trả lời.

    Bọn La Sùng Huân cũng không phản đối thối đường, bọn chúng rất cần mau chóng trở về để thương lượng đối sách. Chúng vốn đinh ninh rằng Địch Thanh không có nhân chứng, nhưng đột nhiên Bát Vương gia lại đứng ra làm nhân chứng, quả thực so với dân chúng toàn thành còn có tác dụng hơn nhiều. Bọn họ đành phải đi tìm Thái Hậu!

    Nha môn phủ Khai Phong chẳng mấy chốc yên tĩnh trở lại. Trình Lâm nhíu chặt hai hàng lông mày, chùm râu thưa thớt đã bị y nhổ rơi lả tả, nhưng vẫn nghĩ không ra kế sách song toàn. Y thấy Bàng Tịch vẫn còn ở bên cạnh, nhịn không được hỏi:
    - Bàng thôi quan, ông nói xem án này nên xử lý như thế nào?

    Bàng Tịch vẫn rầu rĩ ủ ê, trả lời:
    - Muốn xử lý án này, chỉ cần bốn chữ là được.

    Trình Lâm vui mừng, vội hỏi:
    - Bốn chữ đó là?

    Bàng Tịch đọc từng chữ:
    - Công - bằng - xử - lý!

    Trình Lâm ngạc nhiên, thấy trong lời nói của Bàng Tịch có ý châm chọc, liền ngửa mặt lên trời cười haha. Trong lòng thầm nghĩ, ông đứng đó nói, lưng đâu có đau, dù sao đi nữa, án này... Còn đang trầm ngâm thì có cung nhân tiến vào thông báo:
    - Trình phủ doãn, Thái Hậu triệu ông vào cung Trường Xuân tiếp kiến.

    Trong lòng Trình Lâm giật thót một cái, vội vàng sửa sang lại y quan rồi đi vào hoàng cung. Đến ngoài nơi ở của Thái Hậu là cung Trường Xuân, đứng đợi một lát thì có cung nhân dẫn Trình Lâm đi vào. Bên trong cung Trường Xuân phồn hoa rực rỡ, phục trang đẹp đẽ. Trình Lâm cúi đầu liễm mi, không dám nhìn nhiều. Đi tới trước rèm châu, Trình Lâm quỳ xuống nói:
    - Thần tham kiến Thái Hậu.

    Rèm châu rũ xuống đất, lấp loáng ánh sáng trắng nhạt làm cho người ta thấy không rõ dung mạo của người ngồi sau bức rèm. Nhưng Trình Lâm biết rõ, người ngồi sau rèm châu chính là đương kim đệ nhất nhân của Đại Tống, mẫu thân của hoàng đế Triệu Trinh, Lưu Nga - Lưu thái hậu!

    Năm đó, lúc Chân Tông tại vị thì sùng tín quỷ thần, xây dựng rầm rộ khiến cho dân chúng lầm than, tiếng oán thán khắp nơi. Về cuối đời, Chân Tông ngày càng tệ hơn, một lòng cầu thần, không để ý tới triều chính. Khi đó, Lưu thái hậu đã tiếp quản triều chính, chờ Chân Tông băng hà, Triệu Trinh tuổi còn nhỏ, Lưu thái hậu bắt đầu buông rèm chấp chính. Tuy Lưu thái hậu là nữ giới, nhưng xử lý quốc sự rất chú trọng nguyên tắc, chấn chỉnh triều cương, phục hưng thủy lợi, chỉnh lý quan lại, hoàn thiện khoa cử, hơn nữa còn trục xuất rất nhiều gian thần nịnh bợ trong triều. Từ đó nắm vững triều cương, cực kỳ uy nghiêm.

    Trình Lâm có thể lên làm Phủ doãn phủ Khai Phong, cũng là nhờ vào sự tiến cử của Lưu thái hậu. Do đó đối với nữ nhân phía sau rèm châu này, y cực kỳ kính sợ.

    Thấy sau rèm vẫn im lặng, Trình Lâm cho rằng Lưu thái hậu giận mình, mồ hôi ứa ra như tắm, lắp bắp nói:
    - Thái Hậu, án của Mã Trung Lập... vô cùng rắc rối...

    Không đợi Trình Lâm nói xong, Thái Hậu ở phía sau rèm mở miệng nói:
    - Ta hôm nay tìm ngươi đến, cũng không phải là hỏi về án Mã Trung Lập.

    Thanh âm này rất trầm thấp, nhưng lộ rõ uy nghiêm.

    Trình Lâm ngẩn ngơ. Trước khi vào cung, hắn vốn nghĩ rằng Lưu thái hậu muốn hỏi về án của Địch Thanh, nên đã chuẩn bị lí do thoái thác, làm sao nghĩ đến căn bản không phải là chuyện này!

    - Vậy không biết Thái Hậu tuyên triệu, có dặn dò gì?

    Trình Lâm bèn hỏi.

    Phía sau rèm lại yên lặng, rất lâu không có tiếng gì. Đến khi hai chân Trình Lâm quỳ tê dại, Lưu thái hậu mới nói:
    - Án tượng phật Di Lặc trong chùa Đại Tướng Quốc bị hủy cách đây không lâu, tra đến đâu rồi?

    Trình Lâm khó hiểu, thầm nghĩ tượng phật Di Lặc bị hủy tuy khiến người ta nhức đầu, nhưng Thái Hậu hà cớ gì lại hỏi tới? Đột nhiên nghĩ đến tượng phật Di Lặc vốn là do Thái Hậu sai người xây dựng, hoảng hốt nói:
    - Thần đã yêu cầu bọ họ khẩn trương đắp lại thân Phật rồi.

    Ở phía sau rèm, Lưu thái hậu hừ lạnh một tiếng, dường như đang tức giận, nói:
    - Tượng phật tu sửa hay không có quan trọng gì? Nhưng tên phá hoại thân Phật rốt cuộc có bắt được hay chưa?

    Trình Lâm càng thêm không hiểu vì sao Lưu thái hậu đột nhiên xem trọng tới án này, mồ hôi chảy ròng ròng, trả lời:
    - Vẫn chưa.

    Lưu thái hậu khẽ thở dài:
    - Vừa rồi ta nghe người ta nói, ngươi dạo này phá án lề mề, nhưng ta không tin. Hôm nay thấy, mới biết được lời đồn quả không sai.

    Trình Lâm biết người nói xấu hắn nhất định là bọn La Sùng Huân, vội nói:
    - Thái Hậu, không phải thần làm việc bất lực, mà là tên hung đồ hủy tượng Phật đó hành động không có nguyên tắc, thần như lạc vào sương mù, hơn nữa còn không có đầu mối, không thể nào tra ra. Huống chi thần không biết Thái Hậu quan tâm án này đến thế, sau khi trở về, thần nhất định sẽ phái thêm người đi thăm dò.

    Lưu thái hậu chậm rãi nói:
    - Ngươi không cần phái thêm người. Tốt nhất ngươi hãy rút toàn bộ người đang điều tra án này về hết đi.

    Trình Lâm kinh ngạc hỏi:
    - Vì sao thế?

    Nếu Thái Hậu quan tâm đến việc này, vì sao không cho người tiếp tục điều tra? Trình Lâm nghĩ bể đầu cũng nghĩ không thông. Phía sau bức rèm lại tĩnh lặng, Trình Lâm không ngừng kêu khổ trong lòng, suy nghĩ mãi không thấu dụng ý của Lưu thái hậu. Lưu thái hậu không phải muốn cách chức quan của mình chứ? Vừa nghĩ đến đây, mồ hôi trên trán lại chảy xuống ròng ròng.

    Lưu thái hậu hỏi tiếp:
    - Ta nghe nói bộ đầu Khai Phong Diệp Tri Thu làm việc lưu loát, nhiều lần phá đại án. Trình phủ doãn, ngươi đánh giá người này ra sao?

    Trình Lâm không dám nói bừa, ậm ờ nói:
    - Người này làm việc lưu loát, nhiều lần phá được trọng án.

    Hắn nói như chưa nói, nhưng Lưu thái hậu dường như có chút thỏa mãn, trầm giọng hỏi:
    - Người này có đáng tin không?

    Trình Lâm suy nghĩ hồi lâu mới đáp:
    - Diệp gia ba đời đảm đương trách nhiệm bộ đầu Khai Phong, Diệp Tri Thu võ công cao cường, đủ sức đảm nhận chức trách bộ đầu!

    Lưu thái hậu trầm ngâm thật lâu:
    - Vậy hãy bảo Diệp Tri Thu vào cung, Trình phủ doãn, ngươi lui ra đi.

    Trình Lâm lui ra, Diệp Tri Thu lập tức vào cung. Lúc Diệp Tri Thu vào cung, cũng kỳ quái vô cùng, không biết Thái Hậu tìm hắn có chuyện gì. Tuy hắn là danh bộ, nhưng địa vị so với Thái Hậu thật sự kém xa vạn dặm, vốn xưa nay không qua lại, nhưng vì sao Thái Hậu lại muốn gặp hắn?

    Phong thái Diệp Tri Thu sắc sảo như kiếm rời vỏ, nhưng khi vào cung thì cố ý thu liễm đi. Thái Hậu ở sau rèm châu trầm mặc một lúc mới nói:
    - Diệp Tri Thu, ta biết ba đời nhà ngươi đều nhậm chức tại nha môn phủ Khai Phong ở kinh thành. Năm đó Thái Tổ lập quốc, Biện Kinh nhiễu loạn, tổ phụ Diệp Phóng của ngươi phá ba trăm bảy mươi bảy vụ đại án, giết một trăm sáu mươi ba tên đại tặc, nhất thời uy nhiếp kinh thành, bọn tặc vô lại nghe tên đều run sợ.

    Mặt Diệp Tri Thu lộ vẻ cổ quái, trầm giọng đáp:
    - Thái Hậu quá khen.

    Lưu thái hậu lại nói tiếp:
    - Sau này phụ thân ngươi kế thừa nghiệp cha, cũng giống như tổ phụ ngươi, trừ gian diệt ác, trung thành và tận tâm với triều đình. Bây giờ ngươi lại làm bộ đầu. Mấy năm qua, ngươi phá được vô số vụ án, đại tặc cũng bắt được hơn mấy trăm tên. Án ngươi xử lý, chưa từng có oan tình, rất tốt!

    Diệp Tri Thu trả lời:
    - Thực quân bổng lộc, dữ quân phần ưu(7). Thần không muốn thẹn với chức trách của mình!
    (7) Thực quân bổng lộc, dữ quân phần ưu: ăn bổng lộc của vua, phải giúp đỡ cho vua.

    Phía sau rèm, Lưu thái hậu gật đầu:
    - Nói hay lắm, ngươi có biết hôm nay ta tìm ngươi là vì chuyện gì không?

    Diệp Tri Thu lắc đầu nói:
    - Thần ngu độn, đoán không ra tâm ý của Thái Hậu.

    Lưu thái hậu khẽ thở dài một hơi:
    - Vì ta cần một người vừa trung thành tận tâm, vừa có võ công cao cường, bí mật làm giúp ta một chuyện. Ta cảm thấy ngươi phù hợp với yêu cầu của ta.

    Lòng Diệp Tri Thu khẽ run, nếu Thái Hậu thận trọng như vậy, chuyện này làm được đến đâu còn chưa tính, chỉ cần nghe được bí mật, e rằng sẽ là mầm họa cả đời.

    Lưu thái hậu thấy Diệp Tri Thu trầm mặc, hờ hững nói:
    - Ngươi không dám đảm nhận sao?

    Diệp Tri Thu xoay chuyển tâm tư, thấy không thể tránh né, cắn răng nói:
    - Thần nguyện dốc hết sức lực, không phụ sự ủy thác của Thái Hậu!

    Lưu thái hậu hài lòng nói:
    - Rất tốt.

    Khẽ trầm ngâm, rồi nói:
    - Việc tượng phật Di Lặc trong điện Thiên Vương của Đại Tướng Quốc Tự bị hủy, ngươi biết rõ chứ?

    Diệp Tri Thu cau mày nói:
    - Thần đang phụ trách án này. Nhưng người đó đến đi quỷ dị, căn bản không lưu lại bất kỳ manh mối gì, thần tạm thời vẫn chưa tìm được hung đồ.

    Lưu thái hậu đột nhiên hỏi:
    - Ngươi cảm thấy hắn có phải là người Thổ Phiên không?

    Diệp Tri Thu rùng mình, thất thanh hỏi:
    - Thái Hậu vì sao lại đoán như vậy?

    Diệp Tri Thu biết Đa Văn Thiên Vương là thuộc hạ của Phật Di Lặc, trước đây Phật Di Lặc nói ngôn ngữ Thổ Phiên, vì thế Diệp Tri Thu mới đi Thổ Phiên tìm kiếm, nhưng mãi vẫn không phát hiện được gì. Diệp Tri Thu không ngờ rằng, Thái Hậu vậy mà cũng hoài nghi tượng phật bị hủy bởi người Thổ Phiên. Thái Hậu vì sao nghĩ như thế? Đa Văn Thiên Vương vì sao muốn hủy tượng phật? Thái Hậu tại sao lại chú ý đến chuyện này? Diệp Tri Thu nghĩ mãi mà không ra, nhưng cũng không dám hỏi nhiều.

    Rất lâu sau, Thái Hậu mới nói:
    - Ta có cảm giác này.

    Diệp Tri Thu cảm thấy Thái Hậu nghĩ một đằng nói một nẻo, nhưng cũng không dám hỏi tiếp, bèn nói tránh đi:
    - Thái Hậu muốn thần tận lực tìm tên hung đồ đã phá hỏng tượng phật sao?

    Ở phía sau rèm, Thái Hậu lắc lắc đầu nói:
    - Không phải! Haiizz, năm đó tiên đế băng hà, có lưu lại chuyện Thiên Thư, chắc ngươi cũng biết.

    Diệp Tri Thu nói:
    - Thần có biết một ít.

    Thật ra thì hắn biết rất nhiều, nhưng không nguyện nhiều lời.

    Lúc ấy, Chân Tông sùng đạo, có một ngày nói với quần thần rằng: y nhìn thấy thần tiên hàng lâm ở trong điện. Thần tiên nói với Chân Tông, muốn xây đạo trường tại chánh điện rồi sẽ giáng Thiên Thư cho Chân Tông. Sau đó Chân Tông thật sự xây đạo trường và chờ chực, quả nhiên có Thiên Thư ở phía nam bên trái cửa Thừa Thiên. Điều này làm quần thần chấn động, nhưng phần lớn đều thầm cho rằng, Thiên Thư này là do Chân Tông ngụy tạo, bởi Chân Tông muốn củng cố hoàng uy của mình. Nhưng lúc ấy nào có ai dám nhiều lời?

    Kể từ lúc đó, Chân Tông bắt đầu cuồng mê đạo giáo, sùng tín điềm lành, không quan tâm triều chính. Mà các quan lại cũng hùa vào cho là tốt, cả Tống triều tranh nhau tạo nên hình tượng điềm lành, khiến cho không khí thiên hạ ngột ngạt, bách tính khổ không nói nổi.

    Sau khi Chân Tông chết, Lưu thái hậu quyết định đem tất cả Thiên Thư, điềm lành đều mai táng theo Triệu Hằng tại lăng Vĩnh Định. Tuy rằng có chút bất kính, nhưng làm cho người trong thiên hạ thở phào nhẹ nhõm. Từ đó về sau, trong triều đều biết Thái Hậu không thích quỷ thần điềm lành, do đó không còn ai dám ở trước mặt Thái Hậu đề cập đến Thiên Thư, điềm lành nữa.

    Diệp Tri Thu biết được như vậy, càng thêm khó hiểu vì sao lúc này, Lưu thái hậu lại chủ động đề cập đến chuyện Thiên Thư.

    Lưu thái hậu dường như nhận ra vẻ nghi hoặc của Diệp Tri Thu, liền thở dài:
    - Vật của tiên đế, đa số được ta chôn tại lăng Vĩnh Định. Nhưng có một vật duy nhất thì ta giữ lại. Sau đó, mỗi lần nhìn thấy vật này, ta lại cảm thấy thương cảm. Vì thế, ta cho đắp nặn tượng phật Di Lặc đặt ở Đại Tướng Quốc Tự và để vật ấy vào bên trong. Mỗi lần bái tế, nhớ đến còn có di vật tiên đế ở đây, cũng cảm thấy an ủi phần nào.

    Diệp Tri Thu lập tức hiểu ra, nói:
    - Lẽ nào tên đạo tặc kia biết việc này, do đó mới hủy tượng lấy vật sao?

    Lưu thái hậu khen ngợi nói:
    - Ngươi quả nhiên thông minh. Tên trộm đó phá hủy tượng phật Di Lặc là vì thèm muốn di vật của tiên đế. Lần này, ta triệu ngươi đến đây là muốn ngươi dốc hết sức tìm ra tung tích của tên trộm. Chuyện này, ngươi tuyệt đối không được để lộ cho người khác biết.

    Diệp Tri Thu khó xử nói:
    - Thần sẽ dốc hết sức mình. Nhưng vật ấy hình dạng ra sao?

    Lưu thái hậu trầm mặc thật lâu, rồi chậm rãi nói:
    - Vật này to bằng nắm tay của trẻ nhỏ, hình cầu màu đen, phía trên có khắc hai chữ triện, gọi là Ngũ Long!

    Diệp Tri Thu nghi hoặc đầy bụng, thầm nghĩ Ngũ Long rốt cuộc là vật gì? Nếu như quan trọng, vì sao Thái Hậu nhét nó vào tượng? Nhưng nếu không quan trọng, vì sao Thái Hậu lại thận trọng đến thế? Nhưng nếu Thái Hậu không nói, Diệp Tri Thu cũng chỉ có thể truy tìm, không thể hỏi. Hắn kính cẩn nói:
    - Thần đã hiểu rõ, cần phải truy bắt tên trộm ấy về quy án, giao Ngũ Long lại cho Thái Hậu.

    Lưu thái hậu thản nhiên nói:
    - Nhất định phải nghĩ biện pháp thu hồi Ngũ Long. Về phần người nào lấy Ngũ Long, ngươi cứ giết, không cần mang trở về!

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile





    -------> Thảo luận <-------
    ---------> Góp ý <---------


    --------------------------
    Chú thích:


    (1) Thị thần: cận thần bên cạnh Hoàng thượng.
    (2) Thái Bảo: chức quan thấp nhất trong hàng tam công: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo
    (3) Thái Uý: chức quan thời xưa, quản lý về quân sự.
    (4) (5) Thượng thư lệnh (尚书令), Trung thư lệnh (中书令): Vào thời Tống có cấp bậc trên cả Thái Sư. Nhưng đây không phải chức vụ có quyền lực và nghĩa vụ cụ thể, chỉ là chức quan kèm theo cho thân vương hoặc các đại thần được phép ban chiếu vua (lưu thủ, tiết độ sứ, đổng bình chương sự,...).(theo Aficio).
    (6) Tam Quán (三馆): gồm có Thống Văn Quán (tức Chiêu Văn Quán, Tu Văn Quán), Tập Hiền Viện, Sử Quán.
    (7) Thực quân bổng lộc, dữ quân phần ưu: ăn bổng lộc của vua, phải giúp đỡ cho vua.
    Lần sửa cuối bởi Thiên Kim, ngày 25-06-2012 lúc 10:45.

    Sống không giận không hờn không oán trách
    Sống mỉm cười với thử thách chông gai
    Sống vươn lên theo nhịp ánh ban mai
    Sống hòa nhịp với những người chung sống
    Sống là động nhưng lòng luôn bất động
    Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
    Sống an vui danh lợi mãi coi thường
    Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến

    Hidden Content


  4. Bài viết được 35 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
  5. #13
    Thiên Kim's Avatar
    Thiên Kim Đang Ngoại tuyến Danh Đầu Hưởng Lượng Thông Ngữ thần thủ
    Ngày tham gia
    Aug 2010
    Đang ở
    Sài Gòn mộng mơ
    Bài viết
    774
    Xu
    1,950

    Mặc định

    Quyển Thượng: Nghê Thường Khúc ( 霓裳曲 )

    Tác giả: Mặc Vũ (墨武)
    Chương 10: Ninh Minh (宁鸣)
    Dịch Giả: Thiên Kim (天金)
    Biên Dịch: CCD
    Biên Tập: Bella

    Nguồn: Hội Cú - Tàng Thư Viện
    Tụ nghĩa vô lợi kỷ - Xuất thư bất tư danh

    Chúc mọi người giáng sinh vui vẻ và an lành.


    Khi quay trở về phòng giam, Địch Thanh vẫn còn cảm thấy không thể tin được. Chuyện khiến Địch Thanh bất ngờ quá nhiều. Bàng Tịch không ngờ lại nói giúp cho hắn. Tên đại thái giám La Sùng Huân kia rốt cuộc không làm gì được một tên tiểu cấm quân như hắn. Đại lão gia của phủ Khai Phong cũng đau đầu vì hắn.

    Mà chuyện khiến Địch Thanh bất ngờ nhất là hắn phẫn nộ với hành vi của Mã Trung Lập. Hắn quay lại đánh gã để cứu người điên, nhưng không ngờ người được cứu lại là Bát Vương gia! Hắn cũng không biết điều này là phúc hay họa nữa, nhưng hắn ít nhiều cũng biết được một điều. Bát Vương gia khá tốt với hắn, ít nhất có thể làm chứng cho hắn.

    Một lời nói của Bát Vương gia có tác dụng hơn vạn lời chứng của Chu Đại Thường. Có Bát Vương gia làm chứng thì e rằng ngay cả Mã Quý Lương cũng không dám làm càn. Nhưng vì sao Bát Vương gia lại đứng ra làm chứng cho tên cấm quân quèn này chứ? Y không sợ đắc tội với Thái Hậu sao? Bát Vương gia rốt cuộc có phải bị điên không? Địch Thanh không chắc chắn.

    Càng khiến cho Địch Thanh khó hiểu chính là: Trình Lâm chỉ tạm giữ hắn để chờ xử lý, vậy mà lại giam hắn hơn nửa năm.

    Trong nửa năm này, phủ Khai Phong vẫn chưa đưa ra kết luận gì về án của Địch Thanh, hắn cũng chỉ có thể ở trong lao mà chờ đợi. Hạ đi thu đến, thu đi đông đến, trong lao ngày nào cũng như ngày nào, nhạt nhẽo vô cùng. May mà Địch Thanh còn có huynh đệ, Trương Ngọc mỗi lần đến đây đều liên tục oán giận, giống như người ngồi tù là gã vậy. Phủ Khai Phong cứ rề rà kéo dài mãi, Trương Ngọc đâu thể có biện pháp gì? Trái lại, Địch Thanh phải an ủi Trương Ngọc, khuyên bảo huynh đệ hãy thoải mái. Rồi một ngày, Quách Quỳ mang quần áo mùa đông đến. Tuy ngoài miệng không nói gì nhưng Địch Thanh cũng hiểu được rằng: mùa đông này, hắn phải tiếp tục sống trong lao ngục rồi.

    Khi nào được ra tù, Địch Thanh đã không còn mong mỏi quá mức. Trong lao ngục, lòng hắn tạm thời có sự tĩnh lặng. Cũng may là hắn còn có viên Ngũ Long, sự nhàm chán cũng giảm đi ít nhiều. Trong Ngũ Long này dường như có ẩn chứa một bí mật cực lớn, Địch Thanh xem xét rất nhiều lần mà mãi vẫn chưa tìm ra manh mối. Hồng long cũng không thấy xuất hiện nữa. Dù vậy, Địch Thanh biết đó không phải là ảo giác, nhưng bí mật rốt cuộc ở nơi nào?

    Đến một ngày, khi mà Địch Thanh mong mỏi đến tuyệt vọng. Cửa lao chợt vang động, có ngục tốt đi vào nói:
    - Địch Thanh, đến phủ nha thôi, có định án rồi.

    Địch Thanh rất đỗi kinh ngạc. Hắn đi theo ngục tốt đến nha môn phủ Khai Phong. Dọc đường đi, hắn mới phát hiện tuyết đã phủ khắp kinh thành, bông tuyết tung bay, phủ Khai Phong có phần lạnh lẽo.

    Tuyết rơi lả tả ngoài nha môn phủ Khai Phong, cảnh tượng quạnh quẽ thê lương vô cùng, không có dân chúng tụ tập như trước đây. Hiển nhiên, bọn họ cũng giống như Địch Thanh, không biết án này được kết vào lúc nào.

    Địch Thanh đến đại đường phủ Khai Phong. Hắn phát hiện chỉ có hai tên nha lại uể oải đứng đấy. Phủ doãn Khai Phong - Trình Lâm ngồi sau công án, râu vẫn thưa thớt như ngày nào. Bàng Tịch đứng ở một bên, mặt vẫn đầy ưu sầu.

    Địch Thanh lo sợ trong lòng, hắn đến trước công đường quỳ xuống. Trình Lâm nói:
    - Địch Thanh, ngươi chẳng những mạo danh nha dịch làm việc mà còn phá hỏng xe củi của người ta, ngươi có biết tội của mình chưa?

    Địch Thanh thầm nghĩ: ‘Sao lôi tới đây rồi? Vì sao không hỏi chuyện Mã Trung Lập?’ Nhưng hắn không thể không đáp:
    - Tiểu nhân thật sự có lỗi.

    Trình Lâm trầm ngâm, nói:
    - Tuy ngươi mạo danh nha dịch Khai Phong, nhưng may là không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng. Tuy nhiên, đánh nhau hung hãn thì không thể tha thứ dễ dàng. Án theo lệ, ta phạt ngươi tăng thêm năm năm Ma Khám, sau đó bồi thường tổn thất xe củi một lượng bạc cho ông lão là được ra tù, không biết ngươi có nhận tội không?"
    (Ma Khám: thời gian thử thách, để có thể xét thăng quan tiến chức)

    Mắt Địch Thanh giật giật, trong lúc nhất thời không biết trả lời ra sao. Phạt năm năm Ma Khám có nghĩa là trong vòng năm năm hắn không được thăng chức. Địch Thanh không bận tâm với chuyện này. Hắn cũng dễ dàng móc ra một lượng bạc để nộp. Nhưng án phạt như vậy thì thật là ‘đơn giản như đang giỡn’! Việc hắn đánh Mã Trung Lập bị thương thì tính thế nào?

    Trình Lâm thấy Địch Thanh không trả lời, cau mày hỏi:
    - Ngươi không phục án phạt sao?

    Địch Thanh ậm ừ hỏi:
    - Tiểu nhân nộp tiền phạt là có thể ra tù sao?

    Bàng Tịch đứng ở bên cạnh nói:
    - Đúng vậy.
    Dứt lời, gã trao đổi ánh mắt với Trình Lâm, đều cùng nhìn ra sự bất đắc dĩ và mỏi mệt của đối phương.

    Bọn họ rốt cuộc vì sao bất đắc dĩ, chẳng lẽ là vì mình mà mỏi mệt? Địch Thanh không cần nghĩ nhiều, kêu to:
    - Tiểu nhân bằng lòng!

    Nộp tiền phạt xong, Địch Thanh nhận quần áo trước kia lại. Hắn lặng lẽ bước ra khỏi lao ngục của phủ Khai Phong.

    Hắn vào một cách mơ màng, đi ra cũng mông lung không hiểu. Lúc đi vào, cây liễu lả lướt; lúc đi ra, cành trơ trọi lá, tuyết trắng bám đầy. Hơi thở thành sương, mùa đông giá lạnh!

    Địch Thanh không nhịn được xoa xoa hai tay, dậm dậm chân. Hắn vừa mới cất bước thì bỗng nhiên dừng lại. Phía trước có một người đang đứng lẻ loi, râu quai nón bám sương, rõ ràng là đã đứng trong tuyết rất lâu, y đang mỉm cười nhìn hắn.

    Địch Thanh vui mừng vô hạn, chạy tới hỏi:
    - Quách đại ca, sao huynh lại tới đây?

    Quách Tuân quan sát Địch Thanh từ trên xuống dưới, nói:
    - Ra được là tốt rồi.

    Tiếp đó, gã vỗ vỗ bả vai Địch Thanh nói:
    - Chuyện này, đệ không làm sai.

    Sống mũi Địch Thanh chua xót, một dòng máu nóng bốc lên đầu. Hắn bị bọn người Mã Quý Lương vu oan, không sao cả. Hắn bị cô gái áo trắng hiểu lầm cũng không là gì, nhưng Quách đại ca thông cảm với hắn, lại làm cho hắn hổ thẹn khôn nguôi.
    - Quách đại ca, đệ lúc nào cũng gây phiền phức cho huynh.

    Quách Tuân thở dài, cười nói:
    - Chúng ta là huynh đệ với nhau, cần gì nói ra những lời này? Huynh biết đệ có rất nhiều nghi vấn, vừa đi vừa nói nhé. Huynh còn muốn dẫn đệ đi gặp một người.

    Địch Thanh không biết Quách đại ca muốn mình đi gặp ai, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì. Cho dù Quách Tuân bảo hắn nhảy xuống hố lửa thì hắn cũng sẽ nhảy xuống.

    Quách Tuân không bảo Địch Thanh nhảy vào hố lửa, hai người chỉ sóng vai đạp tuyết mà đi. Tuyết đóng thành băng, vỡ thành mảnh nhỏ vang lên tiếng lách tách cọt kẹt, giống như tâm tình của Địch Thanh vào lúc này.

    - Huynh biết đệ nhất định rất kỳ quái, vì sao tự dưng được ra ngoài như vậy? Vì sao không ai đề cập đến chuyện Mã Trung Lập?

    Ánh mắt của Quách Tuân sâu sắc, ngước nhìn mai vàng phía góc tường.

    Địch Thanh vội vàng gật đầu đáp:
    - Đúng vậy. Bọn chúng không phải loại buông tha đệ dễ dàng như vậy.

    - Bọn chúng sẽ không bỏ qua cho đệ. Cho nên từ nay về sau đệ phải cẩn thận.

    Quách Tuân bình thản nói tiếp:
    - Nhưng chuyện này thì có điểm khác biệt. Mã Trung Lập đánh Bát Vương gia bị thương. Nếu như xử nặng đệ thì Mã Trung Lập chính là tội chết! Điểm này bọn họ hiểu rất rõ.

    Địch Thanh rốt cuộc hiểu ra, nói:
    - Cho nên bọn họ đành phải để phủ Khai Phong kết án qua loa, toàn bộ chuyện lớn đều hóa nhỏ?

    Quách Tuân như nở nụ cười nơi khóe miệng, nói tiếp:
    - Đệ nói không sai. Tội danh của đệ là đánh nhau hung hãn, lỡ tay làm người ta bị thương. Cho nên Mã Trung Lập cũng giống thế, vô tình làm Bát Vương gia bị thương. Đệ bị giam nửa năm, gã đó vẫn nằm liệt giường. Chuyện này chỉ cần Bát Vương gia không truy cứu và Thái Hậu không đề cập nữa, như vậy là được rồi.

    Trong lòng thì thầm nghĩ: cách xử lý này vốn nằm trong dự liệu. Nhưng kỳ quái là Bát Vương gia vì sao lại đứng ra làm chứng cho Địch Thanh?

    Địch Thanh thở dài, nói:
    - Cuối cùng đệ cũng hiểu được tác dụng của quyền lực...

    Hắn còn định nói tiếp cái gì đó, nhưng rồi lại không thốt ra câu nào.

    - Địch Thanh, đệ sai rồi.
    Quách Tuân dừng bước, xoay người nhìn Địch Thanh, ánh mắt sáng quắc, nói:
    - Ở nơi này, quyền lực cũng không thể một tay che trời, cho dù là Thái Hậu cũng không thể muốn làm gì thì làm. Bởi vì, trong kinh thành còn có chí sĩ chính trực. Chuyện này đệ không có sai nên xử lý công bằng, đệ không cần bận tâm. Nhưng nếu đệ thật sự có lỗi, không ai có thể cứu đệ được.

    Địch Thanh lẩm bẩm nói:
    - Bốn chữ xử lý công bằng, nói thì dễ nhưng muốn làm không phải chuyện dễ dàng.

    Hai mắt đột nhiên sáng ngời, hắn hỏi:
    - Quách đại ca, huynh muốn dẫn đệ đi gặp chí sĩ chính trực sao?

    Quách Tuân tràn đầy vui mừng:
    - Đệ không ngốc tí nào, huynh dẫn đệ đi gặp một người, tên là ...

    Lời còn chưa dứt liền nghe thấy tiếng keeng keeng thật lớn, là tiếng thanh la truyền đến. Tiếng thanh la này cực kỳ vang dội, chẳng những cắt đứt lời Quách Tuân, mà còn chấn động làm tuyết đọng trên cành cây rơi xuống rào rào.

    Quách Tuân chăm chú nhìn, trông thấy một cỗ kiệu dừng ở cách đó không xa. Địch Thanh vừa nhìn thấy cỗ kiệu kia thì kinh ngạc vô cùng, hắn chưa bao giờ trông thấy cỗ kiệu kỳ quái như thế. Cái này có thể gọi là kiệu sao? Còn không bằng gọi là cái giường đi, bởi vì nó không có nóc và không có cái kiệu nào lại rộng lớn đến như vậy. Nhưng gọi là kiệu cũng không sai vì chưa từng thấy ai khiêng một cái giường đi trên đường cái bao giờ cả!

    Nơi cuối đường bỗng xuất hiện tám tên Lạt Ma (1), trong tay tám tên Lạt Ma cầm một bộ bạt(2) lớn, mỗi lần bước mười bước sẽ cùng nhau vỗ bạt một cái. Âm thanh vang dội mới vừa rồi, chính là tám bộ bạt cùng vỗ tạo nên, chẳng trách được muốn điếc cả tai.
    (1) Lạt Ma (喇嘛): thầy tu ở Tây Tạng (cách gọi tôn kính các nhà sư theo đạo Lạt Ma ở Tây Tạng, Trung Quốc)
    (2) Bạt (钹): xập xõa, não bạt, chập cheng (một loại nhạc khí) http://www.hudong.com/wiki/%E9%92%B9


    Sau tám tên Lạt Ma này còn có mười sáu tên Lạt Ma đang khiêng cỗ kiệu rộng lớn kỳ quái kia. Trên kiệu chỉ ngồi một người. Người này cũng là Lạt Ma nhưng cởi trần nửa người. Tuy thân thể hơi gầy gò nhưng bắp thịt săn chắc như sắt. Ở trong tuyết lạnh gió rét, toàn thân người này vẫn tỏa ra nhiệt khí như có như không. Phiên tăng(3) miệng to, đầu to, lỗ mũi hếch lên trời, nhìn thoáng qua sẽ thấy cái lỗ mũi còn muốn to hơn cái mũi.
    (3) Phiên tăng: tăng nhân người Thổ Phiên.

    Địch Thanh cảm thấy tên Lạt Ma này rất quái dị, cảm nhận này khó nói bằng lời. Đường đường là Biện Kinh mà sao những Lạt Ma này lại càn quấy đến thế? Địch Thanh ở kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa từng nhìn thấy Lạt Ma nào càn quấy như vậy.

    - Quách đại ca...
    Địch Thanh vốn định hỏi lai lịch của Lạt Ma này, đột nhiên phát hiện sắc mặt Quách Tuân cực kỳ khó coi, trong mắt lộ vẻ cảnh giác và hồi ức. Địch Thanh rùng mình, câu hỏi vừa đến đầu lưỡi liền nuốt trở xuống.

    Những Lạt Ma này nhìn bước đi có vẻ chậm, nhưng thoắt cái đã đến bên cạnh Quách Tuân và Địch Thanh. Trời giáng tuyết lạnh, gió rét thấu xương, trên đường phố không người qua lại, cho dù có người thì khi nhìn thấy thanh thế này, cũng sớm tránh sang một bên mà đi. Quách Tuân kéo Địch Thanh lui về phía sau hai bước, y vẫn trầm mặc không nói gì. Lạt Ma trên kiệu đột nhiên hừ lên một tiếng, đôi mắt khép hờ bỗng nhiên mở ra, hắn quay qua nhìn Quách Tuân.

    Đôi mắt ấy không ngờ lại có màu xanh biếc.

    Địch Thanh cảm thấy trong đôi mắt ấy ẩn chứa bí mật vô cùng vô tận, thiếu chút nữa bị ánh mắt ấy hấp dẫn. Quách Tuân lập tức bước lên nửa bước chắn trước mặt Địch Thanh, che khuất tầm nhìn của hắn. Địch Thanh rùng mình một cái, nhất thời không hiểu vừa rồi bị gì. Ở trên kiệu, Lạt Ma nhìn chòng chọc Quách Tuân trong chốc lát, cỗ kiệu không dừng lại mà dần dần đi xa.

    Nhưng ánh mắt thâm thúy và ý vị sâu xa của Lạt Ma kia, vẫn quanh quẩn trong đầu Địch Thanh giống như băng tuyết khó dứt. Sau khi cỗ kiệu biến mất ở đầu đường, Quách Tuân mới thu hồi ánh mắt, hừ lạnh một tiếng, lẩm bẩm nói: Là hắn sao? Sao hắn lại đến nơi này?

    Địch Thanh không hiểu hỏi:
    - Quách đại ca, Lạt Ma kia có lai lịch gì?

    Quách Tuân lắc đầu, nói:
    - Đệ không cần biết. Nhưng sau này, đệ đừng có đi trêu chọc kẻ này.

    Trong giọng nói của gã tràn đầy vẻ đề phòng, lại như là nhớ tới chuyện gì đó. Đột nhiên nghe ở một bên có người nói:
    - Aizz, còn ra thể thống gì nữa.

    Quách Tuân nhìn sang, thấy có một người trông có vẻ như văn sĩ ở trên tửu lầu đang lắc lắc đầu. Ánh mắt Quách Tuân chớp động, quay qua nói với Địch Thanh:
    - Đến tửu lâu uống vài chén đi.

    Địch Thanh thấy Quách Tuân không nói rõ nên cũng không tiện hỏi nhiều. Hắn liền đi theo Quách Tuân lên tửu lầu.

    Ngoài lầu băng đông tuyết lạnh, trong lầu lại ấm áp như xuân. Ở đại sảnh tửu lầu, sớm đã có tửu khách nghị luận ồn ào, Quách Tuân cũng không để ý tới, đi thẳng lên lầu hai.

    Địch Thanh lên tới lầu hai, thấy có một người ngồi dựa vào cửa sổ gần đường phố, hai mắt không khỏi sáng ngời. Quần áo người này đơn sơ, giặt nhiều đến nỗi bạc màu. Vì quay lưng về phía này nên Địch Thanh nhìn không thấy diện mạo của y. Thân hình người này hơi mập, trên bàn chỉ có một bầu rượu và một đĩa muối thạch anh(4).
    (4) Muối thạch anh: lấy ra từ mỏ khoáng thạch muối thạch anh thiên thiên. Thường dùng làm đèn, có ánh sáng nhu hòa đặc trưng và tạo nên vùng không khí rất tốt, có lợi cho sức khỏe.

    Địch Thanh phát hiện người này là một tửu khách chân chính, bởi vì chỉ có tửu khách chân chính mới không cần đồ nhắm, chỉ dùng muối thạch anh để uống rượu, bọn họ không muốn để cho mùi vị khác làm ảnh hưởng đến hứng thú phẩm rượu. Người này không hề nghèo, bởi vì đĩa muối thạch anh kia không rẻ chút nào. Nhưng nhìn vào quần áo thì lại giống như một thư sinh nghèo. Đây rốt cuộc là dạng người gì? Địch Thanh thầm nghĩ trong lòng, đây là người mà Quách đại ca muốn dẫn mình đi gặp sao? Người này có năng lực gì chứ?

    Người này đang nhìn ngắm đường phố, tuy y hơi mập nhưng nhìn bóng lưng lại có cảm giác rất cô độc. Quách Tuân vừa định cất bước thì đột nhiên thấy người đó cầm một cây đũa trúc trên bàn, sau đó gõ nhẹ lên cạnh đĩa sứ men xanh, tiếng đinh đinh đang đang vang lên. Âm thanh này dù không bì được với tiếng đàn êm tai của Trương Diệu Ca, nhưng rất có khí khái.

    Quách Tuân bỗng nhiên dừng lại không bước nữa. Y đứng yên lắng nghe âm hưởng này. Địch Thanh không hiểu chút nào, không biết Quách Tuân rốt cuộc định làm gì.

    Lúc này người đó lẩm bẩm đọc:
    Nhân thế vô bách tuế,
    Khuất chỉ tế tầm tư,
    Dụng tẫn cơ quan,
    Đồ lao tâm lực.

    Niên thiếu si,
    Lão thành tiều tụy,
    Chích hữu trung gian kinh niên,
    Xuân phong đắc ý,
    Nhẫn bả phù danh khiên hệ?

    (Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?)

    Sau khi đọc xong, y bèn nhấp một hớp rượu, khẽ thở dài, hình như đang có chuyện khó xử gì đó. Giọng y u buồn, giống như đã nếm trải đủ mùi đời. Giọng người này tuy trầm thấp, nhưng Quách Tuân và Địch Thanh đều nghe được rõ ràng. Quách Tuân đầy thất vọng, dáng vẻ đăm chiêu.

    Địch Thanh nghe xong, không ngờ lại ngây cả người. Hắn cảm thấy bi thương trào dâng, chỉ muốn khóc òa một trận. Thưở nhỏ, hắn rất thích dốc sức đánh nhau, rất ít đọc sách. Mà mẫu thân thì rất kỳ vọng vào hắn nên dạy hắn biết chữ. Vì vậy, Địch Thanh cũng không phải nhìn chữ mà không biết đọc, nhưng nếu bàn tới văn chương thì như đuôi ngựa xuyên đậu hũ - không cần đề cập đến.

    Dù vậy hắn vẫn hiểu được ý trong bài từ này, bởi vì bài này chỉ có người khổ tâm mới hiểu. Ý người này nói: đời người không quá trăm năm, thưở nhỏ thì không biết xét đoán, tuổi già lại quá hiểu chuyện, chỉ có giữa khoảng này là có nhiệt huyết nhất, đáng tiếc lại chìm trong mưu cầu danh lợi, lầm lỡ cả đời.

    Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh? Chỉ mấy lời hờ hững đã nói hết đời người ngắn ngủi, Địch Thanh suýt nữa rơi lệ.

    Tuy Quách Tuân cũng bị gợi lên chuyện xưa, nhưng dù sao vẫn còn nhớ mục đích đến đây. Gã vừa định cất bước đi qua thì thấy một văn nhân đã ở trên lầu từ sớm đến trước người đó, khẽ gật đầu chào nói:
    - Hi Văn huynh cho mời, không biết có gì chỉ giáo?

    Người ngâm từ đứng lên thở dài nói:
    - Tống đại nhân chịu đến đây, hạ quan cảm kích khôn cùng.

    Tống đại nhân khoát tay nói:
    - Hôm nay chỉ luận thơ phẩm rượu, không bàn việc công. Không biết Hi Văn huynh mời tại hạ đến đây, có định cùng tại hạ đạp tuyết tìm mai(5) không?
    (5) Đạp tuyết tìm mai (踏雪寻梅): đề cập đến một thú vui tao nhã của văn nhân, thi sĩ: vừa ngoạn cảnh vừa đàm luận, sáng tác thơ văn.

    Hi Văn huynh đổi cách xưng hô nói:
    - Tuy Tống huynh không muốn bàn việc nước, nhưng thật không dám giấu diếm, tại hạ lần này mời huynh đến đây, chính là có quan hệ tới việc nước.

    Sắc mặt của Tống đại nhân khẽ biến, Hi Văn huynh nói tiếp:
    - Tống huynh còn nhớ bốn chữ ‘Vi thần bất trung’ không?

    Tống đại nhân tức giận không vui nói:
    - Thì ra Hi Văn huynh gọi tại hạ đến đây, chỉ muốn châm biếm tại hạ?

    Địch Thanh nghe không hiểu, quay qua nhìn Quách Tuân, thấy y dõng tai lắng nghe nên không tiện dò hỏi. Hắn đành phải nhẫn nại tiếp tục nghe.

    Hi Văn huynh lắc đầu nói:
    - Cũng không phải, tại hạ chỉ cảm thấy mình 'bất trung' mà thôi.

    Sắc mặt Tống đại nhân biến đổi không ngừng, hồi lâu mới hỏi:
    - Vì sao Hi Văn huynh nói ra lời này?

    Hi Văn huynh rót cho Tống đại nhân một chén rượu nói:
    - Tống huynh chắc hẳn biết chuyện Giao Tự (6) vào mấy ngày sau?
    (6) Giao Tự (郊祀): lễ cúng tế trời đất ở ngoài thành. Phía nam thành cúng trời, phía bắc thành cúng đất.

    Tống đại nhân nói:
    - Hiện giờ, văn võ trong triều đều biết việc này. Thánh Thượng, Thái Hậu tế bái thiên địa, cầu phúc cho muôn dân, đây là chuyện may mắn của quốc gia.

    Hi Văn huynh thản nhiên hỏi:
    - Tống huynh nghĩ thế thật sao?

    Tống đại nhân cau mày hỏi lại:
    - Hi Văn huynh có ý gì?

    Hi Văn huynh nói:
    - Nếu thật như Tống huynh nói thì đúng là chuyện may mắn của quốc gia. Nhưng Tống huynh có lẽ biết rõ, lần này cũng giống như lễ Trường Ninh, Thánh Thượng sẽ dẫn văn võ bá quan đến điện Hội Khánh chúc thọ Thái Hậu, sau đó mới đến điện Thiên An tiếp nhận triều bái.

    Tống đại nhân chậm rãi nói:
    - Đó là sự hiếu thuận của Thánh Thượng, hình như...hình như...

    Hắn vốn định nói gì đó, nhưng thấy Hi Văn huynh nhìn hắn trân trân. Trên mặt lộ ra vẻ hổ thẹn, rốt cuộc nói không nên lời.

    Hi Văn huynh hỏi:
    - Hình như cái gì? Sao Tống huynh không nói tiếp? Tưởng Thiên tử hữu sự thân chi đạo, vô vi thần chi lễ; hữu nam diện chi vị, vô bắc diện chi nghi. Nhược phụng thân vu nội, hành gia nhân lễ khả dã! (Khi Thiên tử bày tỏ đạo hiếu, thì không dùng lễ bề tôi; đã ngồi hướng Nam, thì đừng quay hướng Bắc. Nếu phụng dưỡng người thân bên ngoại, thì có thể dùng lễ người nhà vậy!) Nhưng đằng này, Thánh Thượng và bách quan tề tựu, hướng Thái Hậu triều bái, mất quân thể, giảm chủ uy, không thể làm gương cho hậu thế. Cứ thế mãi, thiên hạ đại loạn không còn xa nữa.

    Tuy Hi Văn huynh vẫn bình tĩnh, nhưng giọng điệu hùng hồn dọa người.

    Địch Thanh nghe được không hiểu gì hết. Hắn thầm nghĩ: hai người này chắc là đang bàn chuyện tế thiên của tiểu hoàng đế và Thái Hậu, Hoàng đế muốn nhân dịp tế thiên đến điện Hội Khánh mừng thọ Thái Hậu, vậy tại sao Hi Văn huynh không đồng ý nhỉ? Hi Văn huynh nói cái gì ‘thiên hạ đại loạn không còn xa nữa’, khiến hắn cũng có chút buồn lo vô cớ.

    Tống đại nhân cười lạnh nói:
    - Hi Văn huynh nói với tại hạ có tác dụng gì? Chẳng lẽ muốn tại hạ đến nói Thánh Thượng làm không đúng?

    Hi Văn mỉm cười nói:
    - Tại hạ đúng là có ý nghĩ này.

    Tống đại nhân cười ha ha nói:
    - Vậy Hi Văn huynh muốn tại hạ làm chuyện gì đây? Chẳng lẽ nghĩ khoe tài miệng lưỡi như Tô Tần(8) sao?

    Hi Văn huynh chậm rãi nói:
    - Những lời của tại hạ hôm nay, ngày hôm qua đã trình lên Lưỡng Phủ.

    Tống đại nhân cứng miệng, mặt hiện lên vẻ xấu hổ. Hi Văn huynh nói:
    - Hôm nay mời Tống huynh đến đây, tại hạ không muốn làm khó, chỉ cầu Tống huynh nhớ chuyện 'Vi thần bất trung' ngày đó, có thể hoàn toàn giác ngộ, rửa sạch nỗi nhục lúc trước. Đó chính là hạnh phúc của thiên hạ, hạnh phúc trong triều đình. Tại hạ biết mình không có tư cách nổi giận, nhưng nhìn văn võ cả triều, không người nào dám nói, nay từ bỏ hư danh, bị giáng chức là điều chắc chắn. Tại hạ chỉ mong có thể dùng vài câu làm cho chí sĩ tri thức trong triều thức tỉnh, dù chết cũng không hối tiếc.

    Lời của Hi Văn huynh càng lúc càng hùng hồn, nói năng rất khí phách, Tống đại nhân dường như xấu hổ, hồi lâu không nói gì. Không biết qua bao lâu, Tống đại nhân rốt cuộc nói:
    - Hi Văn huynh, tại hạ cũng muốn kể cho huynh nghe một câu chuyện.

    Hi Văn huynh khôi phục lại bình tĩnh, nói:
    - Tống huynh, mời kể.

    Tống đại nhân nói:
    - Cây rừng sum suê, có chim ẩn nấp trong đó. Khi thợ săn đi qua, muôn chim yên lặng, không con nào dám lên tiếng. Nhưng có một chú chim không chịu im lặng, nó hót ríu ra ríu rít nên bị thợ săn phát hiện dấu vết, một mũi tên bắn xuyên qua, lập tức toi mạng. Con chim đó không ngờ mình nhiều chuyện lại gặp tai họa này. Nếu nó chịu im lặng như những con chim khác thì có lẽ đã sống thêm được mấy năm, Hi Văn huynh, huynh nghĩ xem có đúng không?

    Hi Văn huynh thở dài nói:
    - Đa tạ Tống huynh nhắc nhở. Nhưng thà hót mà chết, không im mà sống!

    Giọng nói này tuy trầm thấp, Quách Tuân nghe xong, thân hình vạm vỡ chấn động, trong mắt biểu lộ sự kính trọng. Tuy Địch Thanh không rõ ràng cho lắm, nhưng nghe thanh âm này vang lên hùng hồn, vô cùng có khí phách, chẳng biết tại sao trong lòng cũng sôi trào nhiệt huyết.

    Thà hót mà chết, không im mà sống! Tám chữ này mạnh mẽ sắc bén, đâm thẳng vào lòng khiến cho khuôn mặt Tống đại nhân tái nhợt. Nó cũng phá đi sự yên lặng khó tả trong tửu lầu, còn khuấy động làm khí phách hăng hái không lùi bước thức tỉnh khỏi cơn ngủ mê.

    Tiếng gió rét ngừng lại, trên lầu im ắng tĩnh lặng. Chỉ còn tuyết nhẹ nhàng bay, giống như bóng lưng cô độc kia, không lời ----- nhưng cố chấp như mùa đông.

    Trong mắt Tống đại nhân cuối cùng hiện lên vẻ tôn kính. Y dường như bị tám chữ kia kích động tâm tình, trầm ngâm thật lâu mới nói:
    - Hi Văn huynh sẽ không lẻ loi!

    Nói xong câu này, y uống cạn chén rượu rồi đứng dậy đi xuống lầu.

    Hi Văn huynh cũng không ngăn lại và cũng không đưa tiễn, y chỉ thở dài một tiếng rồi nhấc chén rượu lên, sau đó trầm mặc. Lúc này, Quách Tuân mới đi qua ôm quyền nói:
    - Phạm đại nhân, Quách Tuân có lễ.

    Hi Văn huynh nghe thấy, xoay người nhìn lại, khóe miệng nở nụ cười, nói:
    - Thì ra là Quách chỉ huy sứ.

    Nhìn thoáng qua Địch Thanh bên người Quách Tuân, Hi Văn huynh hỏi:
    - Đây là Địch Thanh sao?

    Địch Thanh lúc này mới nhìn thấy dung mạo Hi Văn huynh. Khuôn mặt này vô cùng trắng trẻo, nhưng có chút ảm đạm. Khóe mắt đã có nếp nhăn, tràn đầy gian khổ. Lần đầu tiên nhìn thấy Hi Văn huynh, Địch Thanh cảm thấy người này rất cô đơn, nhưng khi nhìn đôi mắt người này, Địch Thanh lại phát hiện mình đã sai, rất sai.

    Đôi mắt sáng ngời cố chấp này, ôn nhu đa tình, làm cho người ta sau khi nhìn thấy sẽ đột nhiên phát hiện ra. Thì ra con người đa tình này sở dĩ u sầu thở than, tuyệt không phải vì bản thân. Y không cần người ta cảm thông, bởi vì y đang thương cảm đến chính người đời.

    Quách Tuân nói tiếp:
    - Phạm đại nhân đoán không sai, hắn chính là Địch Thanh. Lần này hắn có thể ra ngoài, còn phải rất cảm ơn Phạm đại nhân dâng thư nói thẳng, minh oan cho Địch Thanh.

    Địch Thanh sửng sốt, ngơ ngác nhìn Phạm đại nhân. Hắn có phần không thể tin nổi. Một người như vậy, không quen biết gì với hắn, lại không sợ đắc tội với Thái Hậu, dâng thư kêu oan cho hắn?

    Phạm đại nhân nở nụ cười, nói:
    - Chỉ huy sứ không cần cảm tạ, đây là bổn phận của ta mà thôi.

    Quách Tuân xúc động nói:
    - Nếu trên đời này ai cũng như Phạm đại nhân thì....

    Phạm đại nhân khoát khoát tay cắt đứt lời Quách Tuân, nhấc bầu rượu lên rót đầy ba chén nói:
    - Hôm nay từ biệt, không biết lúc nào gặp lại, một ly rượu nhạt, hẹn ngày tái ngộ.

    Y uống cạn chén rượu, rồi gật gật đầu chào, sau đó đi xuống lầu. Quách Tuân bưng chén rượu lên, cất giọng nói:
    - Phạm đại nhân, gió mạnh tuyết lạnh, mong người bảo trọng!

    Phạm đại nhân gật đầu rồi đi xuống lầu, chẳng mấy chốc đã khuất bóng vào màn đêm. Quách Tuân cau mày, chán nản ngồi xuống. Địch Thanh bây giờ mới có dịp hỏi:
    - Quách đại ca, Phạm đại nhân này rốt cuộc là người nào? Vừa rồi bọn họ đang thảo luận chuyện gì thế?

    Quách Tuân phục hồi lại tinh thần, uống một hơi cạn sạch rượu trong chén, giải thích nói:
    - Phạm đại nhân tên là Phạm Trọng Yêm, hiện nay đang giữ chức Giáo lý(9) của Bí Các(10). Tống đại nhân tên là Tống Thụ, hiện đang là Hàn Lâm học sĩ của triều đình.
    (9) Giáo lý (校理): chức quan quản lí các sự vụ về Bí Các, như chỉnh lí, khảo đính.
    (10) Bí các (秘閣): Tàng Thư, là nơi cất chứa sách vở, thư họa... của triều đình Trung Quốc xưa.


    Địch Thanh đem tên của Phạm Trọng Yêm nhớ thật kỹ, không nhịn được nói:
    - Chức vị Giáo lý của Bí Các thua kém hơn nhiều Hàn Lâm học sĩ, nhưng thoạt nhìn đối với Phạm đại nhân, Tống Thụ rất … tôn kính?

    Hắn trong lúc nhất thời không tìm được từ phù hợp, ngược lại cảm thấy Phạm Trọng Yêm giống như là cấp trên của Tống Thụ.

    Quách Tuân dõi mắt nhìn Địch Thanh nói:
    - Đệ phải hiểu một điều, muốn nhận được sự tôn trọng của người khác thì không thể nào dựa vào quyền thế và quan chức, mà phải nhìn vào cách đối nhân xử thế của người đó. Quyền thế và quan chức chỉ có thể khiến cho người ta e ngại, chứ không thể khiến cho người ta kính trọng!

    Địch Thanh lặng yên nghiền ngẫm lời mà Quách Tuân nói, rồi cảm thấy có chút giác ngộ.

    Quách Tuân tự rót cho mình một chén rượu, nói tiếp:
    - Phạm đại nhân dù quan vị thấp kém, nhưng trong kinh thành được rất nhiều người kính trọng. Nếu bảo huynh đánh giá Phạm đại nhân, huynh chỉ có thể dùng tám chữ để hình dung, 'Lòng lo thiên hạ, vì nước quên thân!'

    Quách Tuân hiếm khi đánh giá người khác, nhưng khi nói đến Phạm Trọng Yêm, trong mắt tỏ vẻ tôn kính.

    Lòng lo thiên hạ, vì nước quên thân, Địch Thanh nghe đến tám chữ này, hồi lâu mới hỏi:
    - Quách đại ca, người này thực sự xứng với lời bình này sao?

    Quách Tuân bưng chén rượu, ngắm tuyết bay, một lúc sau mới nói:
    - Y vốn tên là Chu Thuyết, Phạm Trọng Yêm là tên sau này của y. Phụ thân y mất sớm, mẫu thân vì là thiếp nên bị người Phạm gia do tranh giành gia tài mà đuổi ra khỏi nhà, nàng tái giá đến Chu gia. Y thuở nhỏ hiếu học, đến khi biết thân thế chân chính của mình thì hổ thẹn vì đổi họ nên bỏ đến phủ Ứng Thiên cầu học. Huynh nghe nói khi đó y cực kỳ bần hàn, vào mùa đông, dựa vào cháo nóng mà sống qua ngày. Mỗi ngày y cho cháo đông lại rồi chia thành bốn phần, mỗi ngày hai bữa, mỗi bữa thì ăn hai phần. Lúc tiên đế tại vị, y vượt qua khảo thí khoa cử trở thành tiến sĩ, từ đó theo đường quan trường. Sau đó y đón mẫu thân lên phụng dưỡng, cũng sửa trở lại họ Phạm, tự lập môn hộ.

    Địch Thanh cảm khái nói:
    - Phạm đại nhân ý chí kiên cường, khiến cho người ta kính nể.

    Quách Tuân ảm đạm cười nói:
    - Một người như vậy, cho dù có chút căm ghét thế tục, nhưng huynh nghĩ cũng có thể cảm thông. Dù tuổi thơ y bất hạnh và gặp nhiều trắc trở, nhưng sau khi tham chính thì thanh liêm như nước, cứu tế thiên hạ. Chỉ cần gặp chuyện bất bình, mặc cho đối thủ là ai. Y đều muốn chống lại đến cùng. Vì thế tuy y có tài cao, nhưng tại quan trường chìm nổi vẫn thủy chung khó mà được triều đình trọng dụng. Khi y bị giáng chức đến Thái Châu, thấy đê biển không được tu sửa liền dẫn người xây đắp mấy trăm dặm đê biển, giúp cho ngàn vạn dân chúng tránh khỏi cảnh cửa nát nhà tan. Khi y đến phủ Ứng Thiên dạy học thì trợ giúp vô số thư sinh nghèo khổ, bản thân quanh năm chỉ mặc một bộ quần áo. Y mặc dù có quan vị thấp kém nhưng khi gặp bất bình sẽ phản đối, tuyệt không lặng yên mà sống. Như chuyện của đệ vậy, mặc dù rất nhiều người biết đệ oan uổng, nhưng thật sự dám dâng thư, đắc tội Thái Hậu, trong triều chỉ có một mình y!

    Tâm tình Địch Thanh kích động, hối hận nói:
    - Khi nãy, đệ quên cảm tạ người rồi. Dường như người đang gặp chuyện rất khó khăn, lúc đó nói với Tống Thụ cái gì mà ‘Vi thần bất trung’, nghĩa là gì vậy?

    Quách Tuân giải thích:
    - Năm đó, Thái Hậu mới vừa nhiếp chính, nịnh thần Đinh Vị nắm hết quyền hành. Hắn liền ra lệnh cho Tống Thụ, lúc đó là Tri Chế cáo(11), khởi thảo chiếu thư vu cáo tất cả các đối thủ chính trị như danh thần Khấu Chuẩn, Lý Địch, sau đó giáng chức đuổi khỏi kinh thành. Khi đó, văn võ bá quan toàn triều đều khuất phục dưới bạo quyền của Đinh Vị, Tống Thụ cũng không ngoại lệ. Tuy Tống Thụ biết Khấu Chuẩn và Lý Địch đều là trung thần, nhưng trên chiếu thư lại khiển trách Khấu Chuẩn là "Vi thần bất trung" , còn phê bình Lý Địch là "Phụ hạ tế ác”(12). Tống Thụ tự cho mình là thanh liêm chính trực, nên chuyện này có thể nói là nỗi nhục cả đời của hắn. Phạm công đề cập đến chuyện "Vi thần bất trung", cũng không phải là muốn vạch trần vết sẹo của Tống Thụ mà quá nửa là muốn khích lệ Tống Thụ, lần trước không kiên định nên để lại tiếc nuối cả đời, hi vọng lần này hắn có thể kiên định.
    (11) Tri Chế cáo (知制诰): Chức vị thời xưa, người khởi thảo chiếu lệnh.
    (12) “Phụ hạ tế ác”: bao che cấp dưới làm chuyện ác.


    Địch Thanh không hiểu hỏi:
    - Phạm đại nhân muốn Tống Thụ khuyên Hoàng Thượng đừng chúc thọ Thái Hậu sao? Điều này cũng đâu có vấn đề gì đâu?

    Quách Tuân nhìn quanh bốn phía, thấy xung quanh không còn tửu khách nào nữa mới nhỏ giọng nói:
    - Địch Thanh, có rất nhiều chuyện đệ chưa biết. Bây giờ, tuy Thái Hậu buông rèm chấp chính, nhưng Thiên tử đã trưởng thành. Rất nhiều người đều hi vọng Thái Hậu sớm trao trả triều chính cho Thiên tử, nhưng Thái Hậu dường như không hề có ý định này. Vì vậy rất nhiều người lén lút rỉ tai nhau, Thái Hậu muốn làm Hoàng đế.

    Địch Thanh rùng mình, nhớ tới lời của Trương Ngọc đã nói ở Tây Hoa môn trước đây, bừng tỉnh hỏi:
    - Cho nên Thái Hậu thà chết chứ không dùng Khấu Chuẩn, chỉ dùng người thân tín là vì muốn chuẩn bị để cướp ngôi sao?

    Quách Tuân thở dài nói:
    - Thái Hậu rốt cuộc có cướp ngôi hay không, không ai biết rõ ràng. Nhưng mấy năm gần đây, Thái Hậu khi vi hành đều dùng Ngọc Lộ của Thiên tử, quy cách triều bái cũng càng ngày càng giống lễ nghi của Thiên tử. Mấy ngày nữa là triều đình tổ chức cúng tế đầu Đông, Thiên tử muốn dẫn quần thần đến chúc thọ Thái Hậu trước, sau đó mới cúng tế. Điều này chắc chắn sẽ làm cái bóng của Thái Hậu bao trùm lên người Thiên tử càng lớn. Thái Hậu được một tấc lại muốn tiến một thước, từng bước dò xét suy nghĩ của quần thần. Phạm công sợ Thái Hậu soán vị sẽ làm cho thiên hạ đại loạn, cho nên dâng thư phản đối việc này. Bây giờ quần thần trong triều đều ‘giữ miệng’, chỉ có Phạm công mới dám đứng mũi chịu sào. Huynh dẫn đệ đến đây chính là muốn đệ trò chuyện với y vài câu.
    (13) Lộ: một loại xe lớn thời xưa. – Ngọc Lộ: Xe ngọc của vua dùng khi vi hành

    Địch Thanh chợt hiểu, nói:
    - Quách đại ca sợ đệ sa sút tinh thần nên muốn lấy chuyện Phạm công cổ vũ đệ?

    Hắn giờ mới biết được dụng tâm sâu xa của Quách Tuân, trong lòng rất cảm kích.

    Quách Tuân cười cười, thầm nghĩ: Địch Thanh cuối cùng trưởng thành rồi. Haiz, hi vọng sau này đệ ấy ít phải chịu khổ. Cả hai người đều có suy nghĩ riêng. Địch Thanh uống cạn chén rượu, cảm động nói:
    - Mấy ngày nữa, đệ nhất định phải đến phủ Phạm công bái tạ. Người như vậy, thật đáng để kính trọng.

    Quách Tuân lắc đầu nói:
    - Không cần! Huynh nghĩ chẳng bao lâu nữa y phải rời khỏi kinh thành rồi.

    Địch Thanh cả kinh nói:
    - Vì sao?

    Quách Tuân buồn bã nói:
    - Vừa rồi, chẳng lẽ đệ không nghe thấy lời Tống Thụ nói sao? Chim đầu đàn luôn chết trước. Lần này, Phạm công dâng thư phản đối chuyện Thiên tử dẫn văn võ bá quan đến chúc thọ Thái Hậu, e rằng không đến hai ngày nữa y sẽ bị tống cổ khỏi kinh thành! Vừa rồi, lúc y xướng: 'nhưng lại vương vấn hư danh?', huynh đã biết rõ dụng ý của y.

    Địch Thanh kinh ngạc hỏi:
    - Ý huynh là Phạm công biết mình sẽ bị giáng chức, nhưng vẫn muốn dâng thư?

    Đột nhiên nghĩ đến lúc sắp chia tay, Phạm Trọng Yêm có nói: "Hôm nay từ biệt, chẳng biết lúc nào gặp lại." Địch Thanh rốt cuộc hiểu rõ, nhớ tới bóng lưng cô độc kia, trong lòng bỗng dưng thấy chua xót.

    - Đúng vậy, đây chính là Phạm Trọng Yêm, một Phạm Trọng Yêm liêm chính!
    Quách Tuân đặt chén rượu đã cạn xuống, gõ nhẹ lên bàn thở dài:
    - Người như thế, đệ nên gặp mặt một lần. Đó cũng là lí do hôm nay huynh dẫn đệ đến đây.

    Gã đứng dậy bỏ chút bạc vụn xuống, cất bước đi xuống lầu. Chẳng bao lâu sau, có một cấm quân vội vàng chạy đến, mừng rỡ nói:
    - Chỉ huy sứ, quả nhiên người ở chỗ này, Thái Hậu triệu người vào cung gấp.

    Quách Tuân ngạc nhiên, không biết Thái Hậu tuyên triệu có chuyện gì. Quay đầu nói với Địch Thanh:
    - Đệ về trước đi, huynh vào trong cung.

    Địch Thanh gật đầu. Hắn thấy gió tuyết đầy đường, dõi mắt nhìn Quách Tuân rời đi, khi bóng đã khuất mới xoay người cất bước về hướng Quách phủ. Hắn uống chút rượu, mượn cảm giác say, nhớ lại những chuyện đã phát sinh trong quán rượu mới nãy, lúc thì tâm tình kích động, lúc thì đau lòng xót dạ.

    Tuổi thơ của hắn vốn gắn liền với miền thôn quê, bản tính thiện lương, hắn dựa vào chút bản lãnh, khi gặp phải chuyện bất bình rất thích dây vào. Nhưng sau mấy lần gặp tai họa, tính cách đã thay đổi rất nhiều. Hắn có phần căm ghét thế tục, có phần ăn năn hối hận, nhưng hôm nay biết chuyện của Phạm Trọng Yêm, đột nhiên nghĩ tới Phạm đại nhân nhiều lần trải qua trắc trở, nhưng lòng vẫn lo cho thiên hạ, cớ gì mình phải cam chịu chứ?

    Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh cảm thấy phấn chấn, gió tuyết phả vào mặt không cảm thấy rét lạnh, trái lại còn hào hứng bừng bừng. Mượn men rượu, hắn ưỡn ngực cao giọng ngâm: "Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?" Địch Thanh không thích thơ văn, nhưng thích ý cảnh thê lương của bài từ này. Đang đạp tuyết trở về, vừa tới bên cạnh một ngõ hẻm nhỏ, gió tuyết lấp đường. Hắn bỗng thấy trên một cây đại thụ ở bên kia tường hẻm có con diều giấy mắc vào.

    Con diều được làm vô cùng khéo léo, phía trên có vẽ chú chim. Chú chim này có cánh hoa lệ, mỏ chim màu đỏ, hai cánh lại có lốm đốm đỏ vàng. Cả kinh thành chìm trong màu trắng xóa khiến nó tỏ ra rất rực rỡ. Địch Thanh vừa nhìn thấy con chim đó, dù không biết tên nó là gì nhưng cũng cảm thấy rất ưa thích.

    Hiện giờ không phải là mùa thích hợp để chơi diều, nhưng sao lại có con diều mắc trên cành cây? Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến, thời tiết thế này mà chơi diều, người này cô quạnh y chang con diều này. Không nghĩ thêm nữa, Địch Thanh quyết định vượt tường trèo lên cây lấy con diều xuống. Vừa định hành động, đột nhiên hắn nghe thấy có tiếng cô gái nào đó gọi:
    - Này, ngươi giúp chúng ta lấy con diều xuống được không?

    Địch Thanh quay đầu nhìn lại, trong lòng run lên, ở đầu ngỏ bên kia có hai cô gái đang đứng. Người vừa lên tiếng là ả nha hoàn, nha hoàn này đứng bên cạnh một cô gái đang kinh ngạc nhìn hắn. Nàng mặc áo lông màu trắng, da trắng mịn màng như ngọc, bông tuyết đầy trời như những cánh hoa đang nhảy múa quanh người nàng, tôn lên khuôn mặt xinh đẹp như tranh, đôi mắt lóng lánh có thần, giống như một bức tranh sơn thủy, tuyệt diệu vô cùng.

    Địch Thanh ngẩn ngơ không thốt nên lời, không ngờ còn có thể gặp lại nàng. Người này không phải ai khác, chính là cô gái mà hắn vô tình gặp được ở điện Thiên Vương.

    Cô gái trước là kinh ngạc, sau đó vui vẻ hỏi: "Huynh... huynh ra rồi? Hóa ra...." Nàng bỗng đỏ mặt, mới nhớ tới mình và Địch Thanh không quen không biết, bèn khép miệng lại, về phần "hóa ra" cái gì, rốt cuộc không có nói ra.

    Địch Thanh ậm ừ nói:
    - Vừa mới ra không bao lâu.

    Hắn đột nhiên cảm thấy tự ti mặc cảm, nghĩ mình không xứng để nói chuyện cùng nàng. Cô gái này thanh cao như thế, mình chỉ là tên cấm quân quèn, lại còn từng bị nhốt trong lao, mà các nàng trước đây còn coi mình là người không ra gì đi tranh giành nhân tình với người khác. Khi đó, mình còn đâm đầu vào nàng, làm nàng bị thương. Mặt nàng xấu hổ, có phải là cảm thấy hối hận vì đã nói chuyện với mình hay không?

    Nghĩ tới đây, Địch Thanh quay đầu định đi, cô gái ấy vội gọi: "Địch Thanh, huynh chờ chút."

    Địch Thanh dừng lại, trầm ngâm một lúc rồi mới quay đầu lại hỏi: "Sao cô biết tên tôi?"

    Cô gái lại có chút xấu hổ, cúi đầu không nói. Nha hoàn bèn nói:
    - Ở kinh thành có ai mà không biết tên ngươi chứ? Một tên cấm quân quèn mà lại dám tranh giành nữ nhân, đánh hoàng thân quốc thích trọng thương.

    Cô gái quát khẽ nói:
    - Nguyệt nhi, đừng nói bừa.

    Nàng ngẩng đầu lên nhìn Địch Thanh đáp:
    - Địch Thanh, em ấy chỉ nói đùa với huynh, mong huynh đừng trách.

    Địch Thanh cười giễu, nói:
    - Tại hạ có tư cách gì mà quở trách người khác chứ? Vị cô nương này, nếu như không có chuyện gì khác, tại hạ xin đi trước.

    Lần đầu gặp gỡ thì sợ hãi, lần tiếp theo thì hiểu lầm, gặp lại lần nữa thì ngỡ ngàng, tất cả đều hóa thành mây khói theo tiếng cười này.

    Cô gái thấy Địch Thanh muốn đi, vội hỏi:
    - Huynh có thể gỡ giúp con diều đó xuống rồi hãy đi, được không? Cây này cao quá, muội lấy xuống không được.

    Địch Thanh nhìn con diều, hỏi:
    - Cô làm con diều này?

    Thấy nàng gật đầu, Địch Thanh không nói thêm nữa, đi tới vài bước, một chân đạp lên tường, vọt lên, lại nhảy tiếp, bắt lấy cành khô, đứng ở chóp tường. Tường này cao khoảng một trượng, Địch Thanh lại có thể dễ dàng trèo lên. Hắn cảm thấy bất ngờ với thân thủ nhanh nhẹn của mình. Đồng thời cũng có chút ngạc nhiên, hắn dùng sức như thế, vậy mà trong đầu không hề đau đớn. Bệnh đau đầu tra tấn hắn nhiều năm, lẽ nào ở trong lao ngục hơn nửa năm, bây giờ nó trở nên tốt hơn rồi?

    Lòng bàn tay đau rát, Địch Thanh mới phát hiện mình chỉ tập trung leo tường, tay đã bị nhánh cây quẹt chảy máu lúc nào không biết. Nhưng vết thương nhỏ này đối với Địch Thanh mà nói, thật sự không đáng bận tâm. Cẩn thận trèo lên cây, tốn một lúc lâu hắn mới gỡ được con diều xuống. Địch Thanh từ trên cây nhảy xuống, chìa tay đưa con diều cho cô gái: "Của cô."

    Cô gái vừa muốn nhận con diều, đôi mắt đẹp khẽ chuyển, chợt che miệng thốt lên:
    - Tay huynh chảy máu rồi!

    Nàng loạng choạng mấy cái, dáng vẻ giống như sắp té xỉu đến nơi. Địch Thanh vội đỡ lấy nàng, hỏi:
    - Cô không sao chứ?

    Đột nhiên cảm thấy có chút không ổn, lại thấy ả nha hoàn nhìn mình lom lom, hắn vội vàng buông tay ra nói: "Nàng... Ngươi mau đỡ nàng."

    Nha hoàn hừ lạnh một tiếng, đỡ cô gái nói:
    - Tiểu thư, nơi này lạnh, chúng ta trở về nhà đi.

    Cô gái nhìn Địch Thanh nói:
    - Cám ơn huynh.

    Nhìn thấy tay Địch Thanh vẫn còn chảy máu, nàng đột nhiên nói:
    - Tay huynh bị thương kìa, phải băng bó lại.

    Nàng nói xong, không để ý tới ánh mắt kinh ngạc của nha hoàn, không đợi Địch Thanh từ chối. Nàng lấy ra lấy ra một chiếc khăn lụa, giữ chặt tay Địch Thanh, cúi đầu băng bó vết thương cho hắn.

    Địch Thanh cúi nhìn xuống, thấy làn tóc đen như mực chảy xuôi theo cái cổ mảnh khảnh trắng như tuyết, trong lòng hơi loạn, vội nghiêng đầu đi không dám nhìn nữa. Hơi thở nàng như hương lan, ngón tay có chút lạnh buốt và khăn lụa mềm mại chạm vào bàn tay, khiến Địch Thanh run rẩy sững sờ như vách đá.

    Không biết qua bao lâu, cô gái cuối cùng thở ra một hơi nhẹ nhỏm, nàng nói:
    - Đã băng bó kỹ rồi.

    Địch Thanh vội hỏi:
    - Trời lạnh, cô mau trở về đi thôi, coi chừng cảm lạnh.

    Cô gái khẽ cười xinh xắn, nhận lấy con diều từ trên tay nha hoàn, dịu dàng nói:
    - Cảm ơn huynh. Còn ... Cảm ơn hoa của huynh.

    Nàng nói xong, khuôn mặt như bạch ngọc hơi ửng hồng, lập tức xoay người rời đi.

    Địch Thanh muốn giữ lại, nhưng không có cớ gì. Hắn chợt hận miệng mình kém cỏi, khi nhìn thấy con diều kia, trong lòng chợt động, kêu lên:
    - Cô nương, con chim này tên là gì vậy?

    Vừa nói xong, hắn lại có chút hối hận, hối hận vì sao mình lại không hỏi tên của nàng. Nhưng hắn cất tiếng hỏi một câu này, khí lực đã giống như chảy hết ra khỏi cơ thể, thốt không nổi câu hỏi thứ hai.

    Thân hình cô gái dừng lại, bóng lưng dường như thẹn thùng, nói:
    - Con chim này.... gọi là .... Hồng Chủy Ngọc.
    Dứt lời, bước nhanh rời đi.

    Địch Thanh ngơ ngác nhìn hình bóng của nàng, lẩm bẩm nói: "Hồng Chủy Ngọc? Tên không tệ." Thật ra, hắn biết mình muốn gì, nhưng không có dũng khí tiếp tục bắt chuyện. Không biết qua bao lâu, hắn chợt cảm thấy toàn thân rét lạnh, không khỏi rùng mình một cái. Hắn phát hiện tuyết đã phủ dầy trên người. Trông hắn giống như người tuyết....

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile





    -------> Thảo luận <-------
    ---------> Góp ý <---------

    --------------------------
    Chú thích:


    (1) Lạt Ma (喇嘛): thầy tu ở Tây Tạng (cách gọi tôn kính các nhà sư theo đạo Lạt Ma ở Tây Tạng, Trung Quốc).
    (2) Bạt (钹): xập xõa, não bạt, chập cheng (một loại nhạc khí) http://www.hudong.com/wiki/%E9%92%B9.
    (3) Phiên tăng: tăng nhân người Thổ Phiên.
    (4) Muối thạch anh: lấy ra từ mỏ khoáng thạch muối thạch anh thiên thiên. Thường dùng làm đèn, có ánh sáng nhu hòa đặc trưng và tạo nên vùng không khí rất tốt, có lợi cho sức khỏe.
    (5) Đạp tuyết tìm mai (踏雪寻梅): đề cập đến một thú vui tao nhã của văn nhân, thi sĩ: vừa ngoạn cảnh vừa đàm luận, sáng tác thơ văn.
    (6)
    Nhân thế vô bách tuế,
    Khuất chỉ tế tầm tư,
    Dụng tẫn cơ quan,
    Đồ lao tâm lực.

    Niên thiếu si,
    Lão thành tiều tụy,
    Chích hữu trung gian kinh niên,
    Xuân phong đắc ý,
    Nhẫn bả phù danh khiên hệ?

    (Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?)

    Đời người trăm tuổi mấy ai
    Lao tâm khổ tứ một ngày trôi xuôi
    Tuổi trẻ khờ dại đã rồi
    Già thì tiều tụy da mồi tóc sương
    Thanh niên đang tuổi huy hoàng
    Lại đem tự trói vào đường hư danh

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    (7) Giao Tự (郊祀): lễ cúng tế trời đất ở ngoài thành. Phía nam thành cúng trời, phía bắc thành cúng đất.
    (8) Tô Tần ( 蘇秦)
    (9) Giáo lý (校理): chức quan quản lí các sự vụ về Bí Các, như chỉnh lí, khảo đính.
    (10) Bí các (秘閣): Tàng Thư, là nơi cất chứa sách vở, thư họa... của triều đình Trung Quốc xưa.
    (11) Tri Chế cáo (知制诰): Chức vị thời xưa, người khởi thảo chiếu lệnh.
    (12) “Phụ hạ tế ác”: bao che cấp dưới làm chuyện ác.
    (13) Lộ: một loại xe lớn thời xưa. – Ngọc Lộ: Xe ngọc của vua dùng khi vi hành.

    Lần sửa cuối bởi Thiên Kim, ngày 25-06-2012 lúc 10:45.

    Sống không giận không hờn không oán trách
    Sống mỉm cười với thử thách chông gai
    Sống vươn lên theo nhịp ánh ban mai
    Sống hòa nhịp với những người chung sống
    Sống là động nhưng lòng luôn bất động
    Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
    Sống an vui danh lợi mãi coi thường
    Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến

    Hidden Content


  6. Bài viết được 36 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
  7. #14
    Thiên Kim's Avatar
    Thiên Kim Đang Ngoại tuyến Danh Đầu Hưởng Lượng Thông Ngữ thần thủ
    Ngày tham gia
    Aug 2010
    Đang ở
    Sài Gòn mộng mơ
    Bài viết
    774
    Xu
    1,950

    Mặc định

    Quyển Thượng: Nghê Thường Khúc ( 霓裳曲 )

    Tác giả: Mặc Vũ (墨武)
    Chương 11: Ám Lưu (暗流)
    Dịch Giả: Thiên Kim (天金)
    Biên Dịch: CCD
    Biên Tập: Bella

    Nguồn: Hội Cú - Tàng Thư Viện
    Tụ nghĩa vô lợi kỷ - Xuất thư bất tư danh

    Chúc học tốt, thi tốt nghiệp tốt.


    Chương 11: Dòng chảy ngầm

    Quách Tuân không biết Thái Hậu tìm mình có chuyện gì nhưng chợt liên tưởng tới đám Phiên tăng đi trên đường cái khi nãy. Gã nghĩ thầm: “Tạng Biên(1) cực kỳ thần bí, mình đã từng nghe qua mấy cao thủ Tạng Mật(2) ở đó. Nghe nói vua Thổ Phiên là Cổ Tư La có thể thoát khỏi khống chế của Phiên tăng - Lý Lập Tuân là nhờ vào ba cao thủ Tạng Mật là Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không. Dựa vào sự trợ giúp của ba tên thuộc hạ này mà thế lực của Cổ Tư La dù mới gầy dựng nhưng cũng không thể xem thường. Tên Lạt Ma vừa đi ngang qua trên đường hình như là thủ hạ Bất Không của Cổ Tư La. Tuy nhiên, Cổ Tư La vẫn còn đang phát triển thế lực, cớ sao lại muốn phái người đến Biện Kinh? Nhìn thanh thế của Bất Không thì chắc là đến giao hảo, nếu không thì cấm quân sớm đã can thiệp rồi. Chẳng lẽ Thái Hậu triệu mình vào cung là có liên quan tới gã Bất Không này sao?”

    Đang lúc suy nghĩ miên man thì La Sùng Huân đi tới. Hắn cất giọng the thé:
    - Quách Tuân, ngài đã đến rồi.

    Quách Tuân mỉm cười hỏi:
    - Không biết Cung Phụng đại nhân có điều gì dặn dò?

    La Sùng Huân nhìn Quách Tuân từ trên xuống dưới đoạn nói:
    - Nghe đâu ngài hiện giờ được xem là đệ nhất cao thủ cấm quân ở Biện Kinh. Không biết là thật hay giả?

    Quách Tuân không tự ti cũng không kiêu ngạo nói:
    - Danh xưng đệ nhất cao thủ, tại hạ nào dám đảm đương? Cung Phụng đại nhân nói đùa rồi.

    - Khoảng hai mươi năm trước, ngài chỉ là một tên thị vệ tầm thường trong cung.
    La Sùng Huân tán thán.
    - Thoáng cái đã qua nhiều năm như vậy. Ngự tiền thị vệ của tiên đế còn lại không được bao nhiêu. Võ nghệ như ngài mà chỉ làm Điện tiền chỉ huy sứ, đúng là nhân tài không được trọng dụng. Nếu như...

    La Sùng Huân giả vờ trầm ngâm. Hắn lia mắt nhìn Quách Tuân rồi mỉm cười yên lặng chờ Quách Tuân dò hỏi.

    Quả nhiên Quách Tuân hỏi:
    - Nếu như cái gì?

    La Sùng Huân thản nhiên nói:
    - Nếu như ngài có thể giúp Thái Hậu làm chút chuyện, cho dù là thống lĩnh lưỡng sương hay làm quan trong Tam Nha cũng dễ như trở bàn tay.

    Quách Tuân cười nói:
    - Với chút năng lực này của hạ quan. Nếu vào Tam Nha có lẽ sẽ bị người ta cười đến rụng răng mất.

    Đáp xong, gã lái câu chuyện sang hướng khác:
    - Không biết Thái Hậu triệu hạ quan đến đây là có điều gì phân phó?

    Gã thầm nhủ: “Không biết La Sùng Huân lấy lòng là ý của Thái Hậu hay là ý của riêng hắn? Nếu là ý của hắn thì phải đề phòng hắn đâm lén một đao. Nếu là ý của Thái Hậu thì có thể thấy Thái Hậu đang lôi kéo nhân thủ. Chẳng lẽ Thái hậu thật sự không muốn nhường ngôi cho thiên tử sao?”

    La Sùng Huân lắc đầu, trong mắt thoáng hiện vẻ giận dữ. Hắn thầm nghĩ, “Tên Quách Tuân này thật không biết điều”.

    Lúc này, từ phía trong cung có một thái giám vội vàng chạy tới hỏi:
    - Cung Phụng đại nhân, Thái Hậu thúc hỏi, Quách Tuân khi nào mới tới?

    La Sùng Huân cất giọng the thé đáp:
    - Gấp cái gì, không thấy đang tới sao?

    Tiếp đó hắn uốn éo cái mông đi trước dẫn đường. Khi vào đến cung Trường Xuân, La Sùng Huân bước tới phòng, quỳ xuống trước rèm châu, kính cẩn nói:
    - Khởi bẩm Thái Hậu, tiểu nhân đã đưa Quách Tuân đến.

    Quách Tuân quỳ một chân trên mặt đất nói:
    - Thần, Điện tiền chỉ huy sứ Quách Tuân, khấu kiến Thái Hậu.

    - Đứng lên đi.
    Giọng nói sau rèm có chút khàn khàn nhưng vẫn lộ vẻ uy nghiêm.

    Quách Tuân chậm rãi đứng dậy, cũng không hỏi tiếp nữa. Dẫu sao đã đến đây rồi, Thái Hậu cuối cùng cũng phải nói ra dụng ý. Ở sau rèm, Lưu thái hậu trầm mặc một lát mới nhẹ giọng nói:
    - Quách Tuân, từ lúc tiên đế băng hà đến nay, ta rất ít khi gặp ngươi. Mấy năm qua, ngươi bận rộn ngược xuôi, vì nước tận lực, đã khổ cực nhiều.

    Quách Tuân trả lời:
    - Đây là bổn phận của thần. Thái Hậu tất bật với chính sự mới thật vất vả.

    Lưu thái hậu đột nhiên thở dài:
    - Ta đúng là mệt mỏi, nhưng thiên tử vẫn còn chưa hiểu chuyện. Than ôi.

    Quách Tuân nghĩ không thấu tâm tư của Lưu thái hậu, dè dặt nói:
    - Nhưng dù sao thái tử cũng đã có thể xử lý chính sự, Thái Hậu nếu muốn rèn luyện cho Hoàng thượng thì bây giờ vừa đúng lúc.

    Lưu thái hậu trầm mặc hồi lâu rồi nói tiếp:
    - Cổ Tư La phái thủ hạ đến Biện Kinh, hắn ta tên là Bất Không.

    Nghe vậy, Quách Tuân thầm nghĩ: “Tên Phiên tăng vừa mới gặp trên đường quả nhiên là Bất Không! Thái Hậu rốt cuộc vẫn không chịu bàn đến việc trao trả triều chính cho thiên tử.”

    Lưu thái hậu lại nói:
    - Hiện nay Tây Bình vương Triệu Đức Minh(4) đã tới lúc xế chiều. Song Triệu Nguyên Hạo(5) dã tâm bừng bừng. Hắn gần đây làm không ít chuyện lớn, đã trở thành tai họa ngầm của triều đình. Trước đoạn thời gian, Triệu Nguyên Hạo tuyên chiến với Thổ Phiên, giằng co với Cổ Tư La không dứt...

    Quách Tuân biết Tây Bình vương Triệu Đức Minh, hơn nữa còn nghe qua con của y là Triệu Nguyên Hạo. Lúc nghe đến ba chữ Triệu Nguyên Hạo, Quách Tuân thốt nhiên trở nên nghiêm nghị nói:
    - Khi Tào Vĩ tướng quân còn tại thế đã có nói dã tâm của Nguyên Hạo rất lớn. Bây giờ Nguyên Hạo đánh nhau với Cổ Tư La chính là việc may của Đại Tống ta.

    Trong đầu gã lại nghĩ: “Chuyện này có quan hệ đến chuyện Bất Không đến Biện Kinh sao?”

    Mấy phần thiên hạ ngày nay, trừ Đại Liêu ở phía bắc khống chế mười sáu châu vùng Yến - Vân(6) nên có thế lực ngang bằng với Đại Tống ra, biên thuỳ phía Tây Bắc nhiều lần xảy ra chiến sự, đã trở thành tai họa ngầm từ lâu. Năm đó, sau khi Tống Thái Tổ lập quốc, vì cầu thống nhất giang sơn, để tránh dây dưa với quá nhiều cường địch nên dùng chiến lược "trước Nam sau Bắc". Thái Tổ cắt đất, phong vương cho thủ lĩnh tộc Đảng Hạng là Lý Di Hưng (con cháu của Thác Bạt Tư Cung ) làm Tây Bình vương, địa vị cắt cứ Định Nam quân Tiết Độ Sứ, để đổi lấy sự thần phục của hắn. Trước đây vào thời nhà Đường, Thác Bạt Tư Cung có công bình định phản loạn, con cháu được ban cho họ Lý, về sau quy thuận Đại Tống, lại được ban thưởng họ Triệu.

    Hai mươi năm đầu nhà Tống, Đại Tống vì thống nhất đại nghiệp nên nâng đỡ tộc Đảng Hạng ở Hạ Châu để kiềm chế Bắc Hán. Kết quả, sau khi Bắc Hán diệt vong, tộc Đảng Hạng ở Hạ Châu đã đủ lông đủ cánh, từ đó trở thành tai họa ngầm của nhà Tống. Tộc Đảng Hạng sau khi trải qua sự lãnh đạo của Lý Quang Duệ, Lý Kế Quân thì đến lượt Lý Kế Phủng nắm quyền. Nhưng vì Lý Kế Phủng không đủ năng lực nên tộc Đảng Hạng rơi vào nguy cơ bị triều Tống thu phục. Vào thời điềm đó, tộc đệ của Lý Kế Phủng là Lý Kế Thiên đột nhiên nổi dậy dẫn dắt tộc Đảng Hạng xông pha đánh về Mạc Bắc xây dựng cơ sở tiếp tục kháng cự Đại Tống. Trải qua con của Lý Kế Thiên là Lý Đức Minh không ngừng hao tâm tổn sức, thế lực của tộc Đảng Hạng càng thêm mở rộng. Đến lúc con trai của Lý Đức Minh là Nguyên Hạo yên vị, hắn càng biểu hiện ra dã tâm bừng bừng.

    Những năm gần đây, tuy Đức Minh đã già nhưng Nguyên Hạo lại bắt đầu tiến hành chinh phạt bốn phương, thỉnh thoảng còn khơi mào tranh chấp ở biên cương Tây Bắc của Đại Tống, trở thành 'kho bom sát vách' của Đại Tống. Nhưng hiển nhiên Lưu thái hậu vẫn không coi trọng hai cha con họ, khi nhắc đến cha con họ Triệu này thì trong giọng điệu tràn đầy sự khinh miệt. Nói nôm na là Lưu Thái hậu cho rằng cha con Đức Minh chỉ là tôi tớ được Đại Tống ban cho họ mà thôi.

    Trầm mặc một lát, Lưu thái hậu lại nói tiếp:
    - Cổ Tư La mặc dù tạm thời có thể chống lại Nguyên Hạo, nhưng cảm thấy nhuệ khí của Nguyên Hạo đang hừng hực nên mới muốn đầu nhập vào triều ta, hy vọng Đại Tống ta có thể xuất binh giáp công Nguyên Hạo. Hắn nói nếu có thể đánh bại Nguyên Hạo thì chỉ mong triều đình phong thưởng Qua Châu và Sa Châu. Không biết ngươi nhìn nhận vấn đề này ra sao?

    Lưu thái hậu ngoài miệng thì hỏi ý kiến, nhưng trong lòng thì cảm thấy khó hiểu, ‘thổ nhưỡng Qua Châu và Sa Châu cằn cỗi, dân cư thưa thớt, Cổ Tư La vì sao chỉ muốn hai nơi này?’

    Quách Tuân cẩn thận đáp:
    - Thần chỉ là Điện tiền chỉ huy sứ, không dám thảo luận bừa chuyện chính sự. Chuyện này đã có Lưỡng Phủ định đoạt.

    Lưu thái hậu ở phía sau rèm nói:
    - Tể tướng, tham chính còn có Xu Mật sứ đều nói triều đình không nên xuất binh giáp công Nguyên Hạo, cứ để cho bọn chúng tàn sát lẫn nhau. Triều ta có thể ngư ông đắc lợi.

    Quách Tuân tự hỏi: ‘Vậy bà còn hỏi tôi làm gì?’ Nhưng biết Thái Hậu tìm mình đến đây, nhất định là còn có nguyên do khác, nên nói bồi thêm:
    - Lưỡng Phủ nói thế, tất có đạo lý.

    Lưu thái hậu hồi lâu sau mới nói:
    - Nhưng nếu không xuất binh mà muốn Cổ Tư La dốc sức, chỉ bằng vào ban thưởng phong hầu thì e rằng vẫn chưa đủ.

    Quách Tuân cau mày hỏi:
    - Lẽ nào...bọn chúng còn có yêu cầu khác sao?

    Lưu thái hậu chậm rãi nói:
    - Ngươi vừa đoán đã trúng, bọn chúng còn muốn ------ Ngũ Long!

    Thân hình Quách Tuân chấn động, sắc mặt biến hóa.
    - Bọn chúng muốn Ngũ Long để làm gì?

    Khoảnh khắc này, ánh mắt gã cực kỳ quái dị, tựa như hồi ức lại tựa như kinh sợ, còn mang theo nghi hoặc khôn cùng.

    Lưu thái hậu lẩm bẩm nói:
    - Ta cũng rất muốn biết bọn chúng muốn Ngũ Long để làm gì. Những Ngự tiền thị vệ của tiên đế biết Ngũ Long chỉ còn mình ngươi. Vì vậy, khi Bất Không đến đây, ngươi có thể ở một bên nghe xem. Biết đâu có thể nghe ngóng được chút manh mối.

    Thoáng trầm ngâm, đoạn Lưu thái hậu hô:
    - Triệu Bất Không vào cung.

    Lần này đến đây, những tên Lạt Ma khiêng kiệu cho Bất Không đều bị chặn lại ở ngoài cung. Quách Tuân đứng ở bên cạnh rèm châu, thấy Bất Không chầm chậm đi tới, chẳng biết tại sao, tim cứ đập thình thịch. Bất Không đầu to thân gầy, giống như củ cải bị bứng khỏi đất trồng. Củ cải này rõ ràng đứng không vững, thoạt nhìn Bất Không cũng trôi nổi bồng bềnh như vậy. Quách Tuân có cảm giác rất kỳ lạ, như thể người này đang lơ lững giữa không trung.

    Hai tay Bất Không kết thành ấn ký kỳ quái, đôi môi mấp máy nhưng không phát ra thanh âm gì. Khi đến gần rèm châu, hắn mới khom người thi lễ:
    - Phật tử sứ giả Bất Không bái kiến Thái Hậu.

    Cổ Tư La là phiên âm theo tiếng Thổ Phiên. Trung Nguyên thì gọi là Phật tử, ngụ ý là Phật thể chuyển thế.

    Quách Tuân như hữu ý lại như vô ý đứng ngăn cách ở giữa Bất Không và Thái Hậu. Dù biết rõ chuyện trọng yếu lần này là thăm dò bí mật của Ngũ Long, nhưng cũng phải bảo vệ Thái Hậu. Tên Bất Không này chẳng những thần bí mà còn là cao thủ, gã không thể không đề phòng.

    Quách Tuân hiểu biết sâu rộng. Gã biết Mật Tông có Tam Mật(7) là Thân, Khẩu, Ý. Vào đầu thời Đường, đại sĩ Liên Hoa Sanh(8) từ Bắc Ấn Độ vào Tây Tạng, truyền thụ Phật pháp Mật Tông, cao thủ Tạng Biên Mật Tông thì cực kỳ thần bí.

    Muốn nói tỉ mỉ về Tam Mật, chỉ sợ nói hơn mấy tháng cũng chưa xong. Nhưng nói đơn giản thì thủ ấn "Thân" mật là một loại phương pháp tu trì, chân ngôn có thể xem là "Khẩu" mật, mà "Ý" mật là một loại lực ý chí. Cao thủ Tạng Mật đều tin rằng lấy tay kết ấn, miệng niệm chân ngôn, tu luyện lực ý chí là có thể kết nối với thần, nhận được thần lực.

    Nhưng đa số người đều nửa tín nửa nghi với điều đó, thậm chí còn cho rằng đây là chuyện tầm xàm. Nếu không phải khi còn trẻ Quách Tuân đã gặp phải chuyện vô cùng thần bí thì cũng sẽ không tin Tam Mật của Mật Tông. Nhưng hiện giờ gã thà tin còn hơn không.

    Tên Bất Không trước mặt này có thần trợ giúp hay không, Quách Tuân không dám khẳng định. Nhưng Quách Tuân thấy hai con ngươi hắn tràn đầy thần quang giống như có ma lực, vả lại cơ bắp Bất Không như sắt, Quách Tuân thật không dám có chút lơ là nào.

    Lưu thái hậu cũng đang quan sát Bất Không, hồi lâu mới nói:
    - Không cần đa lễ.

    Chẳng những cơ bắp như sắt, mà giọng nói của Bất Không cũng sắc bén chói tai y như hai cái bạt sắt vỗ vào nhau.
    - Phật tử thật lòng muốn kết thân với Đại Tống, khẩn cầu triều đình Đại Tống xuất binh cùng đánh Nguyên Hạo. Thái Hậu nói mấy ngày nữa sẽ có câu trả lời thuyết phục, hôm nay triệu thần vào cung, phải chăng đã có đáp án?

    Hắn vừa vô ý vừa hữu ý liếc nhìn Quách Tuân, trong mắt hiện lên hào quang quỷ dị.

    Lưu thái hậu chậm rãi đáp:
    - Phật tử thật lòng muốn kết thân với Đại Tống, đây là việc may của thiên hạ. Ta đã nói với Lưỡng Phủ, quyết định phong cho Phật tử làm Ninh Viễn đại tướng quân, Ái Châu đoàn luyện sứ, Mạc Xuyên đại thủ lĩnh. Qua ít ngày nữa, Đại Tống còn chuẩn bị phát triển giao dịch trà ngựa với các ngươi, không biết ý của ngươi ra sao?

    Bất Không thẳng thắn hỏi:
    - Vậy còn chuyện xuất binh thì sao?

    Lưu thái hậu lạnh nhạt nói:
    - Phật tử muốn kết thân với Đại Tống, Triệu Đức Minh cũng muốn như thế. Ta không thể coi trọng bên này mà xem nhẹ bên kia. Qua vài ngày nữa ta sẽ viết một lá thư khuyên hắn bãi binh là được. Mà dù cho Triệu Nguyên Hạo không bãi binh, lấy thực lực của Phật tử, muốn đánh bại hắn cũng không phải là chuyện khó khăn gì.

    Chỉ mấy câu này thôi mà bà ta đã dễ dàng hóa giải đòi hỏi của Bất Không, ngay cả Quách Tuân cũng có chút bội phục.

    Hào quang trong mắt Bất Không thoáng hiện rồi biến mất. Hai tay hắn kết ấn nói:
    - Vậy chuyện Ngũ Long thì sao?

    Phía sau rèm, giọng nói của Lưu thái hậu có chút âm trầm:
    - Ta muốn hỏi một câu, các ngươi làm sao biết Ngũ Long ở trong tay ta?

    Bất Không mỉm cười.
    - Trí tuệ của Phật tử có thể thông thần, từ lâu đã biết vật này nằm trong tay Thái Hậu. Thật ra thì viên Ngũ Long này vốn là vật của Phật tử, hoàng đế Chân Tông chỉ mượn tạm, bây giờ dùng đã nhiều năm rồi, cũng nên sớm trả lại?

    Ngũ Long này cực kỳ thần bí. Lưu thái hậu không biết nhiều, giờ nghe Bất Không nói như thế thì trong lúc nhất thời không biết nên trả lời thế nào. Song bà ta thầm nghĩ, ‘bọn chúng yêu cầu Ngũ Long, chẳng lẽ...người hủy tượng phật không phải là bọn chúng sao? Nhưng trừ những tên Lạt Ma này ra, còn có ai cũng muốn đánh cắp Ngũ Long chứ?’

    Quách Tuân đột nhiên nói:
    - Tiên đế đã băng hà gần mười năm rồi.

    Bất Không nói:
    - Vị này là Điện tiền thị vệ Quách đại nhân Quách Tuân của Chân Tông năm đó sao?

    Thấy Quách Tuân gật đầu, Bất Không nói:
    - Chân Tông mặc dù đã khuất, nhưng vật mượn cũng nên trả lại, chẳng lẽ không đúng sao?

    Quách Tuân hờ hững đáp:
    - Vật mượn đương nhiên phải trả, nhưng nếu không phải mượn thì đương nhiên không cần phải trả lại. Tiên đế giữ Ngũ Long mười năm, băng hà gần mười năm, ta biết Phật tử bây giờ cũng chỉ khoảng ba mươi. Lẽ nào tiên đế lại đi mượn đồ của một đứa trẻ mới hơn mười tuổi thôi sao?

    Bất Không mỉm cười đáp:
    - Chuyện này vô cùng huyền diệu, khó mà nói chi tiết được. Nhưng ta nghĩ rằng dù cho Thái Hậu có vật này, chắc hẳn cũng không biết tác dụng của nó.

    - Lẽ nào ngươi biết sao? Nếu không ngại, ngươi nói ra nghe xem. Nếu Thái Hậu thấy các ngươi thật sự cần dùng gấp, nói không chừng sẽ cho các ngươi mượn Ngũ Long một thời gian.
    Quách Tuân ra vẻ thoải mái nói.

    Ánh mắt Bất Không chợt lóe sáng, lát sau mới nói:
    - Đó là vật của Thần. Phật tử sử dụng để kết nối với trời.

    Lưu thái hậu không nhịn được quát:
    - Nói bậy nói bạ!

    Thái độ của bà ta uy nghiêm, giọng nói vốn luôn ôn hòa nhưng chẳng biết tại sao bây giờ lại đột nhiên giận dữ.

    Bất Không thở dài nói:
    - Nếu Thái Hậu không tin, thì cứ coi Ngũ Long vô dụng đi. Vậy thì hãy thương tình mà ban nó cho Phật tử chúng ta. Không biết ý của Thái Hậu ra sao?

    Lưu thái hậu thoáng chút ngạc nhiên, bà ta không ngờ rằng Bất Không lại cung kính đến thế. Lần này Cổ Tư La đặc ý phái Bất Không đến đây muốn lấy Ngũ Long mà biểu hiện thì vừa cứng vừa mềm, xưa nay bà ta rất cơ mưu liền xác định trong đó tất có kỳ quái. Mặc dù không biết công dụng của Ngũ Long, nhưng bà ta nhất định không thể đưa cho bọn chúng! Năm đó tên ma quỷ kia từng nói, ở bên trong Ngũ Long có một bí mật rất lớn, ‘được nó được thiên...’ song hắn chưa nói hết câu thì đã chết rồi. Chẳng lẽ ý hắn là ‘được nó được thiên hạ’ sao? Nếu đúng là như vậy thì không thể để quả cầu đó lưu lạc bên ngoài. Còn nếu như hắn định nói ‘được nó được thiên thần tương kiến’(gặp được thần tiên) thì sao chứ? Vậy đúng là gặp quỷ rồi. Nghe nói Phật tử Cổ Tư La rất cơ trí, hắn khao khát Ngũ Long đến thế, nhất định là có bí mật kinh thiên ẩn giấu trong đó.

    Tên ma quỷ trong suy nghĩ của Lưu thái hậu tất nhiên là Chân Tông Triệu Hằng đã băng hà. Đến bây giờ bà ta vẫn còn hận Triệu Hằng, mà vì sao lại hận thì chỉ có chính bà ta mới biết được!

    Song phụ nữ đều như thế cả, thứ mà người ta càng muốn đoạt được thì họ lại càng muốn. Còn ngược lại thì họ cũng không muốn! Lưu thái hậu cũng là phụ nữ nên thái độ không khác gì. Trước đây đối với bà ta, Ngũ Long không quan trọng lắm, có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Nhưng từ khi Ngũ Long bị trộm, bà ta liền cảm thấy không ổn, từ đó mới căn dặn Diệp Tri Thu tận lực tìm kiếm tung tích của Ngũ Long. Lần này thấy Bất Không cũng có hứng thú với Ngũ Long, bà ta càng thêm tò mò.

    Nhưng hiện giờ Lưu thái hậu không giữ Ngũ Long nên không có cách nào ban cho. Bà ta trầm ngâm một lát rồi nhìn Quách Tuân hỏi:
    - Quách khanh gia, ý của khanh thế nào?

    Quách Tuân hiểu ý nghĩ của Thái Hậu, đột nhiên quay qua Bất Không nói:
    - Sáng nay ta ăn cơm, còn thừa lại nửa bát.

    Lưu thái hậu ngẩn ngơ, Bất Không cũng ngạc nhiên buột miệng hỏi:
    - Vậy thì sao nào?

    Quách Tuân chậm rãi nói:
    - Cơm đặt trên bàn, ta không ăn không có nghĩa là ngươi có thể ăn. Muốn ăn nhiều hay ăn ít thì phải xem bản lãnh của ngươi!

    Cung Trường Xuân bỗng dưng chìm trong nặng nề tĩnh lặng.

    Hào quang trong mắt Bất Không lóe lên, hắn lạnh nhạt nói:
    - Hóa ra Quách thị vệ muốn xem bản lãnh của tại hạ.

    Nói xong, hắn chậm rãi bước tới gần Quách Tuân. Quách Tuân cũng bước lên phía trước một bước, khóe miệng nở nụ cười:
    - Không dám.

    Khoảng cách giữa hai người chỉ khoảng một trượng, lúc này không ai động chân nửa bước. Không khí trong cung Trường Xuân vốn ôn hoà như xuân đột nhiên trở nên lạnh lẽo như băng.

    Lưu thái hậu rùng mình, vừa định gọi thị vệ vào cung hộ giá, đánh đuổi Bất Không ra ngoài, nhưng nghĩ lại nên thôi, bỏ đi ý định này. Bà ta biết Quách Tuân từ trước tới nay luôn thận trọng, giờ muốn ra tay thì nhất định là có lý do. Vả lại bà ta biết trước đây Quách Tuân là Ngự tiền thị vệ bên cạnh Triệu Hằng, võ công rất cao cường nên bà ta đặt niềm tin vào Quách Tuân.

    Thế nhưng Quách Tuân vẫn không ra tay, chỉ nhìn Bất Không chằm chằm. Từ lúc Bất Không vào cung, hai tay không ngừng kết ấn, vào thời khắc này cả người hắn như bị đóng băng, không động đậy chút nào. Song môi hắn lại không ngừng mấp máy giống như đang niệm cái gì đó.

    Thật lâu sau, hai người vẫn đứng bất động, bốn mắt nhìn nhau như đao kiếm giao nhau, ẩn chứa đốm lửa. Thái Hậu nhìn qua rèm châu, trong đầu đột nhiên có chút mê man. Bà ta giật mình kinh hãi, tay vung ra hất chén trà rơi xuống đất, "choang" một tiếng vỡ tan tành. Tiếng vang này phá vỡ bầu không khí ngưng trọng giữa Quách Tuân và Bất Không. Quách Tuân chậm rãi lui về phía sau một bước, lạnh nhạt nói: "Xem ra chén cơm này, cũng không dễ ăn."

    Khóe miệng Bất Không khẽ nở nụ cười, tiếp lời:
    - Vậy lần sau ta nếu đến, nhất định sẽ đòi nữa.

    Hắn bỗng xoay người sải bước rời đi, không thèm hỏi đến chuyện Ngũ Long nữa.

    Lưu thái hậu ngạc nhiên hỏi:
    - Quách Tuân, xảy ra chuyện gì?

    Mắt Quách Tuân lộ ra vẻ suy tư trả lời:
    - Thái Hậu cứ yên tâm, hắn sẽ không đòi hỏi Ngũ Long nữa đâu. Về việc tìm bí mật của Ngũ Long, thần sẽ làm tận lực.

    Lưu thái hậu cảm thấy có chút mệt mỏi, khoát tay nói:
    - Được rồi, việc này giao cho ngươi xử lý. Nếu có tin tức thì lập tức bẩm báo cho ta.

    Bất Không mỉm cười sải bước ra khỏi cung Trường Xuân. Mọi người đều biết đây là sứ giả của Thổ Phiên nên không ai dám cản trở. Khi Bất Không ra khỏi hoàng cung thì kiệu đã chờ sẵn. Những Lạt Ma đứng đó kính cẩn lễ phép giống như thấy thần tiên vậy. Xung quanh không có ai khác, chỉ còn lại gió đao tuyết kiếm. Một cơn gió lạnh thổi qua, nụ cười trên mặt Bất Không chợt tắt. Sau một tiếng “oa”, hắn ụa ra một ngụm máu tươi.

    Màu máu đỏ tươi, như hoa mai nở rộ. Cả đám Lạt Ma hoảng sợ, cùng hô lên: "Đại sư..."

    Bất Không khoát khoát tay rồi bước lên kiệu. Hai mắt nhắm nghiền, hắn vô cùng mệt mỏi lẩm bẩm nói:
    - Hay cho một tên Quách Tuân, không ngờ lại có bản lĩnh như vậy, lẽ nào?

    Khóe miệng hắn thoáng nở nụ cười như có như không,
    … nhưng kể từ bây giờ về sau... ngươi đừng có mong nghĩ đến thái bình nữa.

    Địch Thanh quay về Quách phủ thì sắc trời đã tối. Hắn thất tha thất thểu quanh quẩn trên đường cổ Biện Kinh, người như ở trên mây. Hắn cũng không biết tại sao mình không muốn quay về, có lẽ là cảm thấy còn có thể gặp lại nàng ấy lần nữa. Nhưng cho đến lúc đèn hoa đã thắp, hắn rốt cuộc vẫn không gặp được nàng.

    Đẩy mở cổng chính Quách phủ, Địch Thanh thở nhẹ một hơi, đột nhiên sau lưng có cơn gió mạnh thổi tới, Địch Thanh cả kinh quát lên:
    - Ai đó?

    Hắn vừa định xoay người thì có một bàn tay đặt lên vai, một giọng nói trầm thấp vang lên:
    - Là huynh!

    Địch Thanh không cần quay đầu lại cũng biết đây chính là giọng nói của Quách Tuân, hắn vui mừng nói:
    - Quách đại ca, huynh đã về rồi?

    Vừa quay đầu nhìn lại, hắn thấy sắc mặt Quách Tuân trắng bệch, Địch Thanh sợ hãi hỏi:
    - Huynh làm sao thế? Bị thương ư?

    Quách Tuân khoát khoát tay đoạn bước chầm chậm về phòng, sau đó lấy vò rượu ra uống ừng ực mấy ngụm, lúc này mới lẩm bẩm nói:
    - Thật là lợi hại.

    Địch Thanh vẫn một mực đi theo bên cạnh Quách Tuân, nghe vậy vội hỏi:
    - Quách đại ca, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Huynh bị bệnh sao? Đệ đi tìm đại phu cho huynh!

    Hắn vừa muốn xoay người liền bị Quách Tuân bắt lấy cổ tay.
    - Huynh không sao. Hôm nay giao thủ với tên Phiên tăng kia.

    Địch Thanh vô cùng kinh sợ.
    - Huynh cũng không phải là đối thủ của gã ư?

    Hắn thật không thể tin nổi, ngay cả năng lực của Quách Tuân mà cũng không thắng được tên Lạt Ma đó.

    Quách Tuân trầm mặc một lúc.
    - Ôi, khó nói lắm, nhưng hắn nhất định cũng không dễ chịu. Địch Thanh, tên Phiên tăng mà chúng ta nhìn thấy hôm nay tên là Bất Không, là một trong tam đại thần tăng dưới trướng của Thổ Phiên vương Cổ Tư La. Sau này đệ hãy cố mà tránh xa hắn.

    Địch Thanh gật đầu nói:
    - Quách đại ca, đệ nhớ kỹ rồi.

    Trong lòng hắn thầm nhủ, ‘tên Phiên tăng này vì sao lại đối đầu với Quách đại ca? Quách đại ca bảo mình tránh xa gã, có lẽ là muốn tốt cho mình.’

    Trong đầu Quách Tuân nghĩ đến Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không chính là ba đại cao thủ thuộc hạ của Cổ Tư La. Chỉ mỗi tên Bất Không này mà đã có ý chí như vậy, không biết mấy tên còn lại thì sao đây? Cổ Tư La có phải càng thêm lợi hại hay không? Cao thủ Tạng Mật quả nhiên danh bất hư truyền.

    Thì ra Quách Tuân dù chưa giao thủ với Bất Không nhưng so với đánh thật còn nguy hiểm hơn. Hai con ngươi của Bất Không như có một loại ma lực kì dị, quả thực có thể câu hồn đoạt phách. Gã dùng lực tinh thần từ hai con ngươi định khống chế Quách Tuân. Quách Tuân vốn đã nghe qua loại pháp môn này, hôm nay mới được nhìn thấy tận mắt. Ý chí của Quách Tuân từ lâu đã như sắt thép, lại thêm dày dạn trận mạc nên tuy biết rõ pháp môn của Bất Không nhưng vẫn ngưng thần đối kháng với Bất Không. Do đó Bất Không không thể khống chế được Quách Tuân, ngược lại lực tinh thần còn bị thương tổn. Gã địch không lại bèn rời đi, sau đó chịu không nổi phải phun ra một ngụm máu tươi. Tuy nhiên, Quách Tuân cũng cảm thấy tinh thần mệt mỏi đến nỗi ngay cả sức lực cũng không thể ngưng tụ được. Hắn thật sự hoảng sợ thần thông của kẻ này.

    Thấy Địch Thanh rất quan tâm, Quách Tuân cười nói:
    - Không có việc gì đâu. Đệ về nghỉ ngơi đi. Mấy ngày này huynh muốn tra một số chuyện, có thể sẽ ít gặp mặt đệ. Đúng rồi, bọn người Mã Quý Lương không phải là hạng người lương thiện đâu, đệ phải cẩn thận một chút.

    Địch Thanh có chút lo lắng cho Quách Tuân, nghe vậy nói:
    - Vâng, đệ hiểu!

    Đợi Địch Thanh rời đi, Quách Tuân thở phào nhẹ nhõm, khuôn mặt dần dần có chút huyết sắc. Uống thêm vài chén rượu, gã nghĩ thầm: “Thái Hậu không biết bí mật của Ngũ Long nhưng Bất Không rõ ràng biết chút chuyện. Mình đánh bại Bất Không, hắn nhất định sẽ biết mình cũng có bí mật. Chính vì thế, có lẽ hắn sẽ tìm mình gây phiền phức... Quách Tuân khẽ thở dài, rút cây sáo từ trong ngực ra, nhìn ống sáo nói:
    - Bất Không, ta sẽ chờ ngươi. Chuyện này đã khiến ta u sầu quá lâu rồi. Mai Tuyết, nàng cũng biết đấy, năm đó ta cũng là thân bất do kỷ(không thể tự làm chủ)? Nếu không tra ra chân tướng, ta thủy chung khó mà thoải mái được.

    Sáo ngọc lành lạnh, dưới ánh đèn hiện ra lục quang, phản chiếu vào mặt Quách Tuân, thê lương như tuyết bay ngoài phòng...

    Sáng sớm, sau khi Địch Thanh thức dậy, việc đầu tiên là đến vấn an Quách Tuân, nhưng lại phát hiện Quách Tuân đã đi khỏi. Địch Thanh nhớ tới sắc mặt của Quách Tuân vào tối hôm qua liền không khỏi lo lắng vội đi tìm Quách Quỳ để hỏi. Ai ngờ, nó thậm chí còn không biết Quách Tuân từng quay về.

    Địch Thanh không biết làm sao, đành quyết định trước hết cần phải đi đến cấm quân doanh. Đám người Kiêu Vũ quân nhìn thấy Địch Thanh thì hoan hô liên hồi. Nhưng Triệu Luật lại sầm mặt xuống nói:
    - Địch Thanh, ngươi chẳng những quậy phá gây nên rắc rối mà còn mạo danh phủ Khai Phong, Quách chỉ huy có lệnh, phạt ngươi ba tháng bổng lộc để cảnh cáo.

    Mọi người thầm bất bình. Địch Thanh biết Quách Tuân làm vậy là muốn dàn xếp ổn thỏa nên yên lặng chấp nhận. Chịu thiệt có lúc chính là chiếm tiện nghi, Địch Thanh chịu thiệt thòi lần này, nếu có thể bảo vệ được tính mạng thì cũng coi như chiếm tiện nghi rồi. Mặc dù Triệu Luật ra vẻ lạnh nhạt nhưng vẫn phân công Địch Thanh chung tổ với Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh.

    Mấy ngày nữa chính là đại lễ tế tự, cấm quân trong kinh tất nhiên phải toàn lực cảnh giới. Ba người Địch Thanh được phái đến tuần tra khu vực gần sông Ngũ Trượng. Ba người cười cười nói nói đi đến phụ cận sông Ngũ Trượng. Thiên hạ thái bình vô sự đã mấy chục năm, triều đình nuôi nhiều cấm quân như vậy chỉ vì phòng ngừa vạn nhất, nói là tuần tra chứ thật ra thì cũng không có quá nhiều chuyện để làm. Mấy người tìm một chỗ khuất gió núp vào, ôm vai, co chân lại. Địch Thanh ngẩng đầu nhìn trời, thấy bóng chim giữa không trung bay lướt qua thì đột nhiên nhớ tới một chuyện, hỏi:
    - Trương Ngọc, ngươi là người phương nam, vậy có từng nghe qua loài chim nào tên là Hồng Chủy Ngọc chưa?

    Trương Ngọc nói:
    - Đương nhiên là nghe qua rồi. Loài chim này rất đẹp, lúc ta còn nhỏ, còn bắt một con để nuôi. Có điều sau này ta lại thả nó đi.

    - Sao vậy?
    Địch Thanh khó hiểu hỏi.

    Trương Ngọc buồn bã nói:
    - Vì khi ta bắt nó nhốt trong lồng, có một con chim khác không sợ nguy hiểm, hàng ngày ở ngoài lồng thương xót hót than và không ngừng đâm vào lồng chim. Khi đó ta rất ngạc nhiên. Mẹ ta nói cho ta biết, loài chim này cực kỳ trọng tình, hai con chim mái và trống phần lớn thời gian đều như hình với bóng, cực kỳ hết lòng với nhau. Nếu một con bị bắt, con kia dù gặp ngàn vạn nguy nan đi chăng nữa cũng sẽ cố gắng tìm biện pháp đoàn tụ.

    Lý Vũ Hanh tấm tắc nói:
    - Như vậy thì chẳng phải loài chim này còn trung nghĩa hơn con người sao?

    Trương Ngọc thở dài:
    - Ôi, ai nói không phải chứ? Sau khi ta thả nó đi, cha ta qua đời. Chưa tới mấy năm sau, mẹ ta cũng đi nốt, ta nghĩ ... họ cũng giống như Hồng Chủy Ngọc.

    Địch Thanh nghĩ đến mẫu thân của mình, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy chua xót.

    Tuyết đọng trên người Trương Ngọc khiến hắn run lẩy bẩy, thở dài một hơi nói:
    - Đúng rồi, còn quên nói cho ngươi biết, vì Hồng Chủy Ngọc có tính cách này nên chúng ta đặt cho nó thêm một cái tên khác, gọi là chim tương tư.

    Nói xong hắn vỗ vỗ tay, khẽ ngâm:

    Bước vào lối ấy tình say.
    Mới hay nổi đắng niềm cay ơi người.
    Nhớ thương thương nhớ theo hoài.
    Tương tư nổi ấy vắn dài nông sâu!

    Lý Vũ Hanh ở bên cạnh nói:
    - Trương Ngọc à, không ngờ tới cái thứ như ngươi, ngoại trừ đánh rắm ra, còn biết làm thơ con cóc nữa đó.

    Trương Ngọc nói:
    - Cấm quân không đáng sợ, chỉ sợ cấm quân nói nhảm. Đây là thơ Đường do đại thi nhân Lý Bạch sáng tác, vậy mà ngươi lại nói nó là thơ con cóc? Năm đó sau khi cha ta chết, mẹ ta lúc nào cũng đọc bài thơ này cho ta nghe, thế nên ta học thuộc được. Lúc đó chẳng hiểu nỗi khổ đó, bây giờ hiểu thì đã muộn.
    Dứt lời khóe mắt nhòe lệ.

    Địch Thanh nghe vậy thì nhớ tới đại ca thường nói: "Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn dưỡng mà cha mẹ không còn", mới hiểu được tâm tình của Trương Ngọc nên an ủi:
    - Trương Ngọc, ngươi đừng buồn nữa, thực ra cha mẹ chỉ cần biết chúng ta đang sống rất tốt, họ đã cảm thấy hài lòng lắm rồi.

    Lúc này tuyết lớn ngừng lại, ba người chìm trong trầm mặc, mỗi người đều có tâm sự.

    Sau khi kết thúc công việc, Địch Thanh không lập tức trở về nhà mà đi đến nơi lúc trước nhặt diều, cái ngõ hẻm này gọi là ngõ Mạch Kiết.

    Hoàng hôn tuyết lạnh, trong ngõ hẻm đã không còn ai qua lại. Địch Thanh giống như cô hồn dã quỷ đi từ đầu này đến đầu kia ngõ hẻm, rồi lại từ đầu kia quay lại đầu này. Hắn không biết đã đi qua đi lại bao nhiêu lần nhưng vẫn không thấy con diều ấy bay lên. Địch Thanh thầm cười nhạo suy nghĩ hão huyền của mình rồi ngượng ngùng trở về chỗ ở. Đến lúc này vẫn không gặp được Quách Tuân.

    Quách Quỳ vẫn vô tư, chỉ nói ban ngày đại ca có trở về một lần nhưng lại vội vã rời đi, giống như có việc gấp. Địch Thanh biết được Quách Tuân không có việc gì, cũng bớt lo lắng. Hắn ngây người ngồi trên giường, cả đêm chỉ suy nghĩ về việc nàng thả diều trong ngày tuyết, trên thân diều có vẽ chim tương tư, rốt cuộc là có ý gì?

    Không biết qua bao lâu, Địch Thanh đột nhiên nghĩ, ‘mình nhung nhớ nàng đến mức thần hồn điên đảo phải chăng là tự cho rằng nàng ấy đang tương tư mình? Hắn bỗng bật cười thầm nghĩ mình sẽ không phải là tự đa tình như vậy đi. Nhưng nếu không phải như thế thì cớ gì mình lại như bị ma xui quỷ khiến đi tới chỗ đó?’

    Địch Thanh bất chợt phát hiện trên bàn có một chiếc khăn lụa, là chiếc khăn mà cô gái ấy để lại. Hắn tự biện bạch, ‘có lẽ là mình muốn trả lại chiếc khăn lụa này, chứ không có ý khác. Nhưng mà lúc hoàng hôn, khi đi đến nơi đó, mình cũng không có nhớ tới khăn lụa.'

    Địch Thanh ngồi ở trên giường suy tính hơn thiệt rồi ngủ say lúc nào không biết. Sáng sớm tỉnh lại, trong đầu không có hồng long, chỉ có một chiếc khăn lụa xanh thẩm tung bay trong đầu.

    Hôm sau khi xong ca trực, Địch Thanh lại vô thức mà đi đến ngõ Mạch Kiết. Nhưng rốt cuộc cũng không thấy con diều bay lên.

    Vào ngày thứ ba, gió cuồng tuyết lạnh, Địch Thanh thầm nhủ sẽ không có ai chơi diều trong thời tiết như thế này, đừng đến đó nữa. Nhưng rồi sau khi xong ca trực, dù cho gió cắt da, tuyết lạnh lẽo hắn vẫn không cầm lòng được mà đi đến trước ngõ Mạch Kiết.

    Không có diều, chỉ có gió lớn. Địch Thanh hứng gió Tây Bắc cả buổi, khi trở về thì đông cứng giống như cột băng vậy. Núp ở trong chăn sưởi ấm, Địch Thanh tức giận nói: “Ngày mai nếu nổi gió thì chết sống gì cũng không đi. Địch Thanh à, ngươi tự mình đa tình, cả đời này cũng không thể gặp lại nàng nữa đâu. Ngươi là cái thá gì chứ, chỉ lấy giùm nàng con diều, chẳng lẽ còn muốn trả thù lao sao?"

    Mơ màng thiếp đi, sáng sớm tỉnh lại, tuyết ngừng trời trong.

    Địch Thanh nhìn bầu trời quang đãng lạnh giá không khỏi thầm nghĩ, đây chẳng phải là thời tiết tốt để chơi diều sao? Hôm nay đúng lúc không trực ban, Địch Thanh đứng dậy đến ngõ Mạch Kiết thêm lần nữa. Hắn dựa vào tường hẻm, đứng chờ từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn...

    Ngay cả một bóng người cũng không thấy.

    Gió bắc nổi lên, tuyết bay tán loạn, Địch Thanh rụt cổ lại nhìn gốc cây dương nằm ở trong tường hẻm. Gốc dương trụi lủi, bám đầy tuyết, cây và người nhìn nhau trân trân. Thỉnh thoảng có một cơn gió thổi qua, tuyết đọng trên cây rớt xuống xào xào xoạt xoạt, Địch Thanh vươn tay ra, ngắm nhìn những bông tuyết rơi xuống trên tay, hóa thành từng hạt nước.

    Trời tuy lạnh nhưng lòng ấm. Tình dù mông lung nhưng nồng cháy.

    Mặt trời chiều đã lặn, ánh tà dương tan hết, màn đêm bắt đầu bao trùm thành Khai Phong cổ kính. Địch Thanh rung mình rũ tuyết đọng trên người rồi xoay mình đi về phía đầu hẻm. Chợt vang lên âm thanh ‘loẹt xoẹt, loẹt xoẹt’, là tiếng bước chân mang theo bông tuyết hiu quạnh, âm thanh đó đến đầu ngõ thì ngừng bặt.

    Nơi đầu ngõ, có hương mai thoang thoảng, cành mai vươn ngang. Địch Thanh đứng ở nơi đây không phải vì mai, khuôn mặt tê dại vì lạnh của hắn đột nhiên rạng rỡ khó tả. Đầu kia ngõ hẻm, một người con gái giống như tuyết mai thanh tịnh đang đứng ở nơi đó ngóng nhìn Địch Thanh. Trong đôi mắt màu mực thủy mặc xanh đỏ này lung linh nước mắt, giống như băng chưa tan trong làn nước xanh khi mùa xuân tới.

    Cuối cùng cũng gặp được người con gái trong mộng, Địch Thanh đột nhiên cảm thấy ông trời đối xử với mình không tệ. Để có thời khắc này, không biết hắn đã đợi bao lâu rồi. Nhưng đúng vào lúc này, hắn mới phát hiện ra mình không có lời gì để nói. Hắn chỉ là tên cấm quân tầm thường, mà nàng...

    Đang chìm trong suy nghĩ miên man, Địch Thanh chợt phát hiện cô gái khẽ run rẩy trong gió. Cuối cùng, hắn bước nhanh đi tới, cố lấy dũng khí nói:
    - Cô... thật trùng hợp, lại có thể gặp được cô.

    Địch Thanh có chút xấu hổ, hắn biết trên đời này trùng hợp đa phần đều là từ cố ý.

    Cô gái thản nhiên cười một tiếng:
    - Đúng là trùng hợp.

    - Hôm nay không chơi diều sao?

    - Hôm nay không phải ngày thả diều.
    Cô gái ho nhẹ hai cái.

    Lúc này Địch Thanh mới phát hiện hai má nàng ửng đỏ, ân cần hỏi:
    - Cô cảm lạnh à?

    Cô gái nói:
    - Mấy ngày hôm trước thả diều, bị cảm lạnh cho nên mấy ngày nay không tới.

    Địch Thanh hoảng hốt trong lòng, dù không muốn nhưng lại không thể không nói:
    - Vậy mau mau trở về đi, ở đây lạnh lắm.

    Cô gái kéo kín áo lông trắng trên người, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời rồi đột nhiên nhảy lên hai cái. Địch Thanh không hiểu ý nàng, chỉ cảm thấy như có một đóa hoa xoay múa trong tuyết.

    - Mẹ nói cho muội biết, nếu như cảm thấy lạnh, phải vận động vài cái.

    Cô gái khẽ cười, nụ cười này giống như trăng sáng.

    Địch Thanh cười nói:
    - Đúng vậy.

    Bây giờ, hắn mới phát hiện mình cũng bị lạnh đến run rẩy. Hắn lắc trái lắc phải dậm chân rồi nói:
    - Bọn huynh cả ngày chạy quanh kinh thành, nếu như cảm thấy lạnh thì hãy dậm chân một cái, nếu chân không lạnh thì người sẽ không lạnh.

    Cô gái đột nhiên che miệng cười khúc khích.

    Địch Thanh ngẩn ngơ hỏi:
    - Cô cười gì thế?

    Cô gái nói:
    - Muội thấy huynh lắc lư giậm chân giống như là một con cua lớn. Muội thích ăn nhất là cua ở đông thành Biện Kinh.

    Nàng nhịn không được cười ngặt nghẽo.

    Địch Thanh rất bối rối nhưng trong lòng lại thấy vui sướng.

    Cô gái cười xong, giậm mạnh chân một cái, hành động ngây thơ hồn nhiên không thể tả. Sau một lúc lâu, nàng vui vẻ nói:
    - Huynh nói rất đúng. Muội cũng biến thành con cua rồi, giống huynh...

    Đột nhiên nàng thẹn thùng cúi đầu không nói, chỉ dùng mũi chân vẽ lên mặt tuyết.

    Địch Thanh nhìn say sưa, thầm nghĩ: ‘Giống nàng sao? Giống nàng là một cặp cua sao?’ Tuy đoán như vậy, nhưng làm sao dám mạo phạm giai nhân?

    Không biết qua bao lâu, cô gái lại cười hỏi:
    - Địch Thanh, vì sao huynh nhập ngũ?

    Địch Thanh thấy cô gái thoải mái không câu thúc, bản thân cũng dần dần không còn bất an, hắn đáp:
    - Nói ra rất dài dòng...

    - Kể cho muội nghe đi.
    Cô gái mỉm cười nói.

    Địch Thanh thấy trong đôi mắt nàng như hàm chứa cái gì đó, cũng tuyệt không có ý rời đi, đành phải nói:
    - Trước đây huynh vốn không muốn nhập ngũ. Nhưng trên đời không phải mình muốn làm cái gì thì làm được cái đó..." Sau khi kể ra chuyện trước đây, hắn đột nhiên cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều. Tất nhiên là rất nhiều chuyện đều được lược bớt đi. Kể đến lúc bắt Triệu công tử hắn chỉ nói là may mắn, lúc ấy bị bức bách không biết làm sao nên đành phải tòng quân.

    Cô gái lẳng lặng lắng nghe. Sau khi nghe xong, nàng cảm thấy lạnh giá liền dậm chân nói:
    - Thì ra là thế! Theo muội thấy, huynh không giống với bọn họ.

    Địch Thanh khẽ run, hỏi:
    - Có gì không giống chứ?

    Trong trời tuyết, vẻ mặt cô gái như uống rượu say. Chợt nghĩ đến gì đó, nàng ngẩng đầu nhìn trời rồi kinh hãi kêu lên:
    - Trời ơi, muộn rồi. Muội phải về thôi, nếu không thì cha sẽ quở trách.

    Vừa dứt lời, nàng xoay người chạy đi, trong đất tuyết trông nhẹ nhàng như thỏ ngọc.

    Địch Thanh đột nhiên nhớ tới còn chưa có hỏi tên nàng, vừa muốn cất tiếng hỏi thì cô gái đã hòa vào trong bóng tối. Địch Thanh có chút lo lắng, sợ rằng nàng đi một mình sẽ xảy ra chuyện nên lặng lẽ đi theo. Nhìn bóng dáng yểu điệu ấy đi vào cửa son cho đến khi không còn thấy bóng dáng nữa, lúc này hắn mới yên lòng.

    Trên đường quay về, Địch Thanh cảm thấy người nhẹ như yến, vui sướng vô hạn.

    Sáng sớm ngày tiếp theo, Địch Thanh đến cấm quân doanh sớm rồi cùng Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đến phụ cận sông Kim Thủy tuần tra.

    Địch Thanh dào dạt tâm sự, chỉ mong mặt trời như sao băng mau lặn xuống để hắn có thể báo cáo kết quả nhiệm vụ rồi đến ngõ Mạch Kiết. Mặc dù không chắc chắn rằng nàng có thể đến được hay không, nhưng bây giờ mỗi ngày nếu hắn không đến nơi đó đảo qua một vòng thì buổi tối sẽ cảm thấy ngủ không ngon.

    Thấy sông Kim Thủy uốn lượn về hướng đông, tuyết phủ trắng xóa, nhìn như rồng bay, Địch Thanh bỗng nghĩ đến hồng long, trong lòng thoáng rung động. Đồng thời hắn cũng có chút kỳ quái, mấy ngày nay sao hồng long không xuất hiện nữa nhỉ?

    Trong lúc suy tư, Địch Thanh nghe Lý Vũ Hanh nói với Trương Ngọc:
    - Trương Ngọc, ngươi có biết gần đây kinh thành xảy ra chuyện lớn không?

    Trời tuyết mà phải đi trực, có thể nói là khổ không thể tả, nếu không tán phét mấy câu thì quả thực rất nhàm chán. Trương Ngọc thuận miệng hỏi:
    - Ngươi thì biết cái rắm gì chứ?

    Lý Vũ Hanh than thở:
    - Nghe nói Phạm Trọng Yêm bị cách chức đuổi khỏi kinh thành rồi.

    Địch Thanh phục hồi lại tinh thần, trong lòng chấn động. Hắn nhớ lại đôi mắt giàu tình cảm ấy, khuôn mặt thương tâm ấy. Phạm Trọng Yêm quả nhiên bị cách chức rồi, kết cục này đã sớm định trước. Nhưng chỉ có loại người như thế mới dám làm những chuyện đã biết rõ kết cục! Địch Thanh nhìn băng tuyết trên sông Kim Thủy, cảm thấy rất lạnh.

    Trương Ngọc khịt mũi khinh bỉ nói:
    - Ngươi coi chuyện này là chuyện lớn ư? Ta còn biết ngoại trừ Phạm Trọng Yêm bị cách chức ra, còn có Hàn Lâm học sĩ Tống Thụ đấy. Hai người này đều khuyên Thái Hậu giao quyền cho thiên tử, kết quả đều bị Thái Hậu giáng chức đuổi khỏi kinh thành.

    Địch Thanh bỗng nhớ tới Quách Tuân từng nói: "Thái Hậu muốn làm hoàng đế!" Không nhịn được kéo chặt cổ áo.

    Trương Ngọc nói tiếp:
    - Thái Hậu muốn làm hoàng đế!

    Lý Vũ Hanh vừa kinh vừa sợ, vội hỏi:
    - Trương Ngọc, đừng nói bừa.

    Trương Ngọc hừ lạnh nói:
    - Ta không nói bừa, Thái Hậu không ngừng trục xuất thần tử trung thành với họ Triệu ra khỏi kinh thành, chính là muốn làm hoàng đế.

    Không có ai lên tiếng đáp lời. Trong không khí vô cùng lạnh lẽo, Địch Thanh nhịn không được thầm nghĩ, ‘thiên tử là con trai của Thái Hậu, Thái Hậu muốn làm hoàng đế, vậy xử lý thiên tử ra sao đây?’ Địch Thanh chỉ thoáng nghĩ trong đầu rồi nở nụ cười nhạt tiếp tục ngắm băng tuyết trên sông Kim Thủy. Hắn chỉ là tên cấm quân nho nhỏ, loại chuyện như vậy chỉ suy nghĩ thôi cũng là dư thừa. Một người có phiền não, thông thường không phải suy nghĩ quá ít mà vì suy nghĩ quá nhiều.

    Gần đến hoàng hôn, Địch Thanh cầm lòng không được. Hắn vừa định cùng Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh quay về báo cáo kết quả nhiệm vụ thì bất chợt thấy xa xa có mấy người đi tới. Người dẫn đầu mặt ngăm đen, khuôn mặt góc cạnh giống như miếng sắt, chính là bộ đầu Khâu Minh Hào của phủ Khai Phong.

    Mấy năm nay phủ Khai Phong ngoại trừ bộ đầu Vương Lâm Tông ra còn có mấy người tài giỏi khác. Trong số đó, hai người Diệp Tri Thu, Khâu Minh Hào bởi vì phá án xuất sắc, nên được người kinh thành ca tụng là "Nhất Diệp Tri Thu, Minh Sát Thu Hào."

    Diệp Tri Thu như kiếm, Khâu Minh Hào thoạt nhìn như tấm chắn, một tấm chắn bằng sắt!

    Đi theo phía sau Khâu Minh Hào là một người thanh niên ngạo mạn, con mắt giống như mọc ở trên trán vậy. Địch Thanh nhận ra đó là Hạ Tùy, là con trai của Tam Nha - Mã quân đô chỉ huy sứ Hạ Thủ Uân. Hiện nay gã là một Chỉ huy sứ của quân Kiêu Kỵ.

    Quân Kiêu Kỵ và quân Kiêu Vũ đều chịu sự chỉ huy của Thị vệ Mã Quân Ti trong Tam Nha. Nói cách khác, cho dù là Quách Tuân cũng phải nghe lệnh của Hạ Thủ Uân. Hạ Tùy có người cha làm to nên cũng có thể chỉ huy bọn người Địch Thanh. Hiện giờ hắn đang ngạo mạn nói:
    - Tuần tra phụ cận cầu Bạch Hổ ở sông Kim Thủy là ba người các ngươi sao?

    Trương Ngọc có cấp quan cao nhất trong ba người liền đáp:
    - Trừ ba người chúng tôi ra, cầu Bạch Hổ còn có nhóm Quân Đầu - Lý Giản trông coi.

    Hạ Tùy gật đầu nói:
    - Nếu như vậy thì cầu Bạch Hổ giao cho nhóm Lý Giản phụ trách đi, ba người các ngươi đi theo ta.

    Ba người Trương Ngọc rất kinh ngạc, nhưng không thể làm gì khác hơn là phải nghe theo lệnh điều động. Họ đi theo sau Hạ Tùy mà không biết phải làm cái gì. Địch Thanh ngầm nhíu mày, thầm nghĩ ‘nếu là người xui xẻo, uống nước nguội cũng tê răng’. Hắn vốn định đi ngõ Mạch Kiết, không nghĩ tới lại có việc phải làm.

    Hạ Tùy cũng không nhiều lời, dẫn đám người đi thẳng về hướng nam. Đôi mắt Khâu Minh Hào như điện cảnh giác chú ý động tĩnh xung quanh. Vẻ mặt hai người này đều thận trọng như gặp đại địch. Đám người theo cầu Bạch Hổ xuôi nam, đi qua Đại Phật Tự rồi qua cửa bắc, sau đó lại vòng qua cửa hàng vàng bạc Vương gia một vòng.

    Địch Thanh nhìn mặt trời sắp lặn ở phía tây, màn đêm lờ mờ phủ xuống, trong lòng lo lắng. Lúc này chợt nghe Hạ Tùy thấp giọng nói:
    - Bọn chúng có lẽ ẩn nấp ở nơi này.

    Khâu Minh Hào cũng hạ thấp giọng nói:
    - Đúng vậy, trước mắt đừng rút dây động rừng, không bằng điều tra rõ ràng rồi tính tiếp.

    Địch Thanh nghe thấy lời của Hạ Tùy và Khâu Minh Hào, nhưng không hiểu ý nghĩa, chỉ láng máng biết hai người này chắc là đang tìm ai đó. Hắn vô tình phải đi bắt trộm, trong lòng sớm đã mắng chửi khôn thôi. Ngẩng đầu nhìn sắc trời, Địch Thanh thấy rất nhiều cửa hàng đã lên đèn, cả con đường cầu Kim Lương như cả trời sao sà xuống, rực rỡ vô cùng. Hắn nghĩ, ‘hôm nay nàng có đến ngõ Mạch Kiết hay không?’

    Thật không dễ dàng mới chờ được đến lúc Hạ Tùy nói:
    - Hôm nay tạm đến đây thôi, chư vị vất vả rồi, về nghỉ ngơi đi.

    Địch Thanh vội vàng cáo từ rời đi. Trương Ngọc liếc nhìn Hạ Tùy, nhìn thấy sắc mặt gã âm trầm đang nhìn theo bóng lưng của Địch Thanh, không khỏi rùng mình một cái...


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile





    -------> Thảo luận <-------
    ---------> Góp ý <---------

    --------------------------
    Chú thích:

    (1) Tạng Biên (藏边): biên giới Tây Tạng

    (2) Tạng Mật (藏密): là Mật Tông Tây Tạng, chú trọng về Pháp Tu Quán Tưởng Chuyển Hóa Thân Thành Bổn Tôn (Phật).

    (3) Mật Tông (密宗): http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt_t%C3%B4ng

    (4) Lý Đức Minh (李德明) (981–1032): hay Thác Bạt Đức Minh là thủ lĩnh của bộ tộc Đảng Hạng và là một trong những người sáng lập ra triều đại Tây Hạ. Đức Minh là cha của Lý Nguyên Hạo, vị vua hùng cường của Tây Hạ. Khi cha ông qua đời trong trận chiến trong năm 1004, Thác Bạt Đức Minh đã thay thế cha trở thành nhà lãnh đạo của những người Tây Hạ, và trong vòng hai mươi năm tiếp theo, ông bành trướng một cách đáng kể lãnh thổ được kiểm soát bởi bộ tộc mình. Ông có một người vợ tên là Vệ Mộ, họ là Mộ Dung ( Mộ Dung là dòng họ lập ra nước Nam Yên (398-410) thời Ngũ Hồ thập lục quốc). Năm 1028, ông đặt tên con trai của ông Lý Nguyên Hạo và phong làm thái tử. Ông chết vào năm 1032, và sau khi chết, Đức Minh được truy phong là Tây Hạ Thái Tông (太宗).

    (5) Tây Hạ Cảnh Tông (sống: 1003-1048, trị vì: 1032 - 1048), tên thật là Thác Bạt Nguyên Hạo (chữ Hán: 拓跋元昊) hay Lý Nguyên Hạo (李元昊), là vị Hoàng đế sáng lập ra triều đại Tây Hạ.

    (6) Mười sáu châu vùng Yến - Vân (燕雲十六州), còn có tên "mười sáu châu U Kế" là chỉ nhà hậu Tấn, năm Thiên Phúc thứ ba (938), Thạch Kính Đường cắt nhường cho Khiết Đan.

    (1) U Châu
    (2) Thuận Châu
    (3) Nho Châu
    (4) Đàn Châu
    (5) Kế Châu
    (6) Trác Châu
    (7) Doanh Châu
    (8) Mạc Châu
    (9) Tân Châu
    (10) Quy Châu
    (11) Vũ Châu
    (12) Úy Châu
    (13) Ứng Châu
    (14) Hoàn Châu
    (15) Sóc Châu
    (16) Vân Châu

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    Từ khi mười sáu châu vùng Yến - Vân bị cắt nhường, Trung Nguyên mất đi phòng tuyến về tự nhiên và nhân lực với các dân tộc du mục phương Bắc. Liêu quốc cũng bắt đầu từ dân tộc du mục đơn thuần, chuyển dần thành dân tộc giao hòa giữa du mục cùng nông nghiệp. Tại mười sáu châu vùng Yến - Vân, dân tộc Hán cũng sống chung với dân tộc Khiết Đan.

    (7) Tam Mật (三密): các yếu tố quan trọng của Mật Tông là phép niệm chân ngôn (Khẩu), phép bắt ấn (Thân) và sử dụng Mạn-đồ-la cũng như các lần Quán đỉnh (Ý). Mật Tông là giáo pháp mà sư phụ truyền cho học trò bằng lời (khẩu quyết) và đó là lí do mà Mật Tông không được truyền bá rộng rãi. Mật Tông tại Trung Quốc rất thịnh hành vào đời Đường, nhưng dần dần thoái trào và về sau này thì tuởng như suy vi hẳn. Thật ra, sau này do nhiều pháp sư lạm dụng sự huyền bí của chơn ngôn nên Mật Tông dần co cụm lại và truyền thụ cho những nguời có duyên với pháp môn này.

    (8) Liên Hoa Sinh (蓮華生): là một Đại sư Ấn Độ, sống cùng thời vua Tây Tạng Ngật-lật-song Đề-tán (755-797). Sư truyền Phật giáo sang Tây Tạng và sáng lập tông Ninh-mã, một trong bốn tông phái lớn của Tây Tạng và được các đệ tử gọi là "Phật thứ hai." Sư hay sử dụng thần thông, nhiếp phục ma quái và thiên tai. Cách tu hành của Sư rất đa dạng, từ cách sử dụng đao truỷ thủ đến tu tập các phép thiền định theo hệ thống Đại cứu cánh. Sư thuộc dòng của các vị Đại thành tựu (sa. mahāsiddha), để lại rất nhiều truyện thần thoại cho đời sau và ở các nước vùng Hi-mã-lạp sơn (Himalaya), người ta tôn thờ gọi Sư là "Đạo sư quý báu"
    Lần sửa cuối bởi Thiên Kim, ngày 25-06-2012 lúc 10:44.

    Sống không giận không hờn không oán trách
    Sống mỉm cười với thử thách chông gai
    Sống vươn lên theo nhịp ánh ban mai
    Sống hòa nhịp với những người chung sống
    Sống là động nhưng lòng luôn bất động
    Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
    Sống an vui danh lợi mãi coi thường
    Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến

    Hidden Content


  8. Bài viết được 51 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
  9. #15
    Thiên Kim's Avatar
    Thiên Kim Đang Ngoại tuyến Danh Đầu Hưởng Lượng Thông Ngữ thần thủ
    Ngày tham gia
    Aug 2010
    Đang ở
    Sài Gòn mộng mơ
    Bài viết
    774
    Xu
    1,950

    Mặc định

    Quyển Thượng: Nghê Thường Khúc ( 霓裳曲 )

    Tác giả: Mặc Vũ (墨武)
    Chương 12: Bác Sát (搏杀)(1)
    Dịch Giả: Thiên Kim (天金)
    Biên Dịch: CCD
    Biên Tập: Bella

    Nguồn: Hội Cú - Tàng Thư Viện
    Tụ nghĩa vô lợi kỷ - Xuất thư bất tư danh

    Bị giới hạn 50000


    ----------------------------------------------
    Chương 12: Chém giết
    ----------------------------------------------
    -----------


    Tuyết đã ngừng, gió thêm lạnh. Gió thổi vào người, buốt lạnh thấu xương.

    Địch Thanh chạy một mạch từ cầu Kim Lương thẳng đến ngõ Mạch Kiết. Ngõ Mạch Kiết cách cầu Kim Lương rất xa. Hắn chạy cấp tốc gần nửa canh giờ, toát mồ hôi trán, lại nghỉ ngơi thêm hai lần nữa mới đến được đầu ngõ Mạch Kiết.

    Trăng sáng treo cao, ngõ Mạch Kiết yên ắng đến nỗi ngay cả bóng quỷ cũng không thấy. Địch Thanh há miệng thở hổn hển, hơi thở lạnh giá phả vào không khí ngưng tụ thành khí sương, nó cũng biểu thị cho nỗi mất mác trong lòng Địch Thanh. Địch Thanh thở dài tiếc nuối rồi ngồi xuống nhìn bụi hoa mai ở góc tường, bóng cây nghiêng nghiêng, hoa mai rung động, mùi hương quanh quẩn nơi đây, đoạn lẩm bẩm nói:
    - Huynh có việc nên đến trễ, xin lỗi muội.

    Mặc dù không có hẹn ước gì với cô gái, nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt nàng thì Địch Thanh đã thấy rằng, không cần phải hẹn ước, nàng tới cũng được, không tới cũng chẳng sao, hắn lúc nào cũng đợi nàng!

    Địch Thanh ngồi trên mặt tuyết một lúc lâu rồi mệt mỏi đứng dậy. Hắn nhìn thấy dưới hoa mai có vài cánh hoa màu hồng. Trong lòng chợt động, hắn chậm rãi bước tới. Bên cạnh cánh hoa có lưu lại một dãy dấu chân hẹp, dường như đây là dấu chân nhỏ nhắn của cô gái để lại. Địch Thanh nhìn theo dấu chân thì phát hiện phương hướng dấu chân rời đi và đây cũng chính là phương hướng mà nàng rời khỏi khi đó, trong lòng hắn không khỏi thốt lên: "Là nàng, là nàng! Rõ ràng nàng đã tới đây." Địch Thanh men theo dấu chân tìm kiếm thì thấy dấu chân này kéo dài đến trước cửa son rồi dừng lại, trong sự mừng rỡ xen lẫn một chút thất vọng. Vui là vì nàng vẫn còn nhớ tới mình, nàng đến đây chắc là tìm mình. Thất vọng là vì hắn bận chuyện nên không thể đến đây đúng hẹn.

    Ở trước cửa son chần chừ thật lâu, cho đến khi sắc trời tối sẫm, Địch Thanh vẫn không có can đảm đi gõ cửa. Hắn lại men theo dấu chân quay trở về chỗ cũ. Lúc đi theo, do tâm tình kích động nên không lưu ý. Lúc quay lại, Địch Thanh mới phát hiện dấu chân ấy không hoàn chỉnh, chỉ có vết mũi chân. Hắn thầm nhủ: "Sao nàng phải đi kiểu như thế nhỉ?" Ban đầu mới gặp, nàng xinh đẹp rụt rè nho nhã, lần gặp mặt gần đây nhất thì lại thấy nàng ngây thơ chân chất. Khi đó nàng còn nhảy mấy cái để đỡ lạnh. A! Chắc là nàng vui vẻ nên mới nhảy nhót tung tăng quay về. Vừa nghĩ đến đây, hắn cảm thấy hạnh phúc trào dâng trong lòng. Nhưng ngẫm lại, suy đoán này của mình chưa chắc đúng. Nàng không gặp được mình, sao lại vui mừng chứ? Chẳng lẽ mình đáng ghét đến thế sao? Trời lạnh đường trơn, nói không chừng nàng không cẩn thận, bị té ngã hoặc là bị trật chân nên mới dùng mũi chân nhón nhón quay về. Vừa nghĩ đến đây, con tim hắn liền nhói đau, trong lòng lo sợ bất an. Hắn quay về phía cửa son một lần nữa, chú ý quan sát dấu chân ấy. Hắn bỗng nhìn thấy chỗ có nửa cái dấu chân, chúng hơi rộng so với nhịp bước bình thường, chợt nghĩ: "Không phải là bị thương. Đây là dấu chân nhảy lên, nếu như bị thương thì nhịp bước của dấu chân này phải nhỏ hơn bình thường mới phải."

    Địch Thanh nghĩ tới đây, lại quay trở về chỗ cũ. Nhưng lòng không yên, hắn vừa đi vừa dán mắt nhìn dấu chân của cô gái, ngay cả dẫm lên cũng không nỡ. Hắn đi một mạch đến nơi mấy cành mai thì lại lưỡng lự không đi. Hắn bỗng nhìn thấy vết chân dưới cành mai cũng hỗn loạn, thầm nhủ: ‘Đúng rồi, chắc là nàng cảm thấy lạnh nên đi loanh quanh đợi ở đây. Trời ơi, đáng ra mình không nên để nàng chờ.'

    Địch Thanh ngồi xổm xuống xem xét lại dấu chân, đột nhiên ánh mắt đanh lại. Hắn cảm thấy cánh hoa trên đất tuyết có chút khác thường. Mượn ánh trăng mờ mờ, Địch Thanh mới phát hiện được một điều rằng những cánh hoa này xếp thành hình mũi tên chỉ về một hướng, đầu cuối của mũi tên có viết mấy chữ. Kí hiệu này vốn dĩ rất rõ, nhưng trong lúc lòng rối như tơ vò, Địch Thanh hoàn toàn không chú ý tới. Bây giờ nhìn thấy ký hiệu này, tim hắn đập thình thịch. Hắn biết đây chắc là chữ mà cô gái kia lưu lại. Nhưng rốt cuộc viết cái gì?

    Địch Thanh nhìn chăm chăm vào tám chữ được viết trên mặt tuyết: “Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung”.
    (Thảo trùng: loại côn trùng sống núp trong bụi cỏ, như dế.)

    Địch Thanh biết chữ chẳng ít, nhưng cũng không nhiều, trong tám chữ này có đến sáu chữ hắn không biết! Hai chữ duy nhất hắn có thể biết đó là ‘thảo trùng”, nhưng những chữ này có nghĩa gì?

    Địch Thanh nhìn thật lâu. Hắn nghĩ rằng nàng nói hắn đáng ghét như thảo trùng sao? Nhưng thảo trùng cũng không hoàn toàn đáng ghét, cũng có một số côn trùng đáng yêu đấy. Nhưng cuối cùng hắn lại cảm thấy khó mà tự bào chữa, đa số côn trùng không phải đều đáng ghét sao? Rồi ‘yêu yêu’ này thì có nghĩa gì? À, có lẽ là nàng muốn mình bắt thảo trùng cho nàng, vì thế mới viết chữ ‘yêu’ này, nhưng vì sao có tới hai chữ ‘yêu’ và phía trước có thêm chữ ‘khẩu’ là sao chứ? Chắc là nàng thúc giục mình, bảo mình mau mau tìm thảo trùng? Chỉ có điều mùa này tuyết lạnh đất đông, ở đâu mới có thảo trùng đây? Mà nàng muốn thảo trùng làm gì kia chứ? Địch Thanh nghĩ đến đây, cứ cảm thấy lời giải thích của mình quá gượng ép. Hắn nhìn bốn chữ "địch địch phụ chung" ở phía sau, càng thêm mờ mịt khó hiểu. Hắn nghĩ: 'Chữ cuối gồm chữ ‘mùa đông’ và hai chữ ‘côn trùng’ ghép lại với nhau, nếu vậy thì suy đoán khi nãy của mình có lẽ đúng, nàng muốn một loài côn trùng vào mùa đông. Côn trùng vào mùa đông? Than ôi, trời đông như thế này, rốt cuộc đi đâu tìm loại côn trùng đó đây?'
    (喓(yêu/liu riu)= 口(khẩu)+ 要(yêu/muốn)
    螽(chung)=冬(mùa đông)+虫(côn trùng))


    Địch Thanh suy đoán cả buổi mà vẫn không có kết quả, cuối cùng cảm thấy có lẽ nên tìm người có học vấn hỏi thử. Hắn rút bội đao ra định chặt cành mai xuống để khắc mấy chữ này lên, nhưng ngẫm lại ‘nàng thích cành mai này, nếu mình chặt đi thì không còn để cho nàng ngắm nữa!’
    (Bội dao: đao đeo ở bên hông)

    Do dự một lúc, Địch Thanh chợt nảy ra một ý. Hắn bèn cởi giày, kiễng chân lên, lấy mũi đao khắc tám chữ này vào đế giày. Sau khi so sánh một lúc và xác nhận không sai thì hắn mới mang giày vào. Hắn tiếp tục ở lại một lúc lâu, chờ đến khi nàng trăng cũng đã ngủ. Lúc này hắn mới chịu quay về.

    Khi về tới Quách phủ thì đêm đã khuya. Địch Thanh trằn trọc cả đêm, khó mà ngon giấc. Trời vừa ửng sáng, hắn đã vội vàng thức dậy đi ra ngoài. Chợt cảm thấy ngực mình hơi đau, hắn đưa tay sờ thì phát hiện cơn đau này là do hắc cầu cấn vào ngực gây nên.

    Hắc cầu tuy quỷ dị nhưng đã lâu rồi không hiển linh, do đó Địch Thanh không còn lòng dạ nào để ý tới nó. Hắn vội vàng đi tìm Quách Quỳ. Quách Quỳ vẫn còn đang ngủ say. Địch Thanh không tiện đánh thức nó. Hắn bỗng nảy ra một ý, bèn ở trong sân múa quyền pháp vù vù.

    Từ khi Địch Thanh đến Biện Kinh tới nay, Quách Tuân hết lòng truyền thụ võ công cho hắn. Địch Thanh không nỡ làm Quách Tuân thất vọng nên mọi chiêu thức đều cố gắng nhớ kỹ. Song vì vận lực khó khăn nên thường ngày ít luyện tập. Lúc này, hắn nổi lòng hứng thú, từng quyền từng quyền nối đuôi nhau được đánh ra, mạnh mẽ như hổ. Địch Thanh đánh đến hưng phấn thì thò tay rút đao ra múa thêm một hồi. Địch Thanh cảm nhận được khí lực trong cơ thể bây giờ rất sung mãn, đánh đến tận hứng, hắn hét to một tiếng, phóng trường đao bay vèo tới cắm mạnh vào gốc cây liễu phía đối diện vang lên một tiếng "rắc".

    Địch Thanh ném đơn đao xong đột nhiên cảm thấy kinh ngạc, thầm nghĩ, ‘đầu mình hết đau rồi sao?’ Hắn vừa nghĩ đến đây thì cảm giác trong đầu có cơn đau đớn mơ hồ, nhưng không còn đau đớn cùng cực như trước đây nữa.

    Chẳng lẽ người gặp chuyện vui thì tinh thần cũng sẽ sảng khoái hơn nhiều? Địch Thanh đang kinh ngạc thì có một người hoan hô:
    - Đao pháp tuyệt quá! Địch nhị ca, không ngờ huynh có bản lãnh như vậy. Đầu huynh hết đau rồi sao?

    Địch Thanh quay đầu lại liền trông thấy Quách Quỳ. Địch Thanh ngờ vực nói:
    - Huynh cũng không chắc là đã tốt hơn hay chưa. Nhưng lần này sau khi múa đao xong, đầu huynh thật sự không còn đau đớn như trước kia nữa.

    Quách Quỳ vui vẻ nói:
    - Đây chẳng phải là chuyện rất tốt hay sao? Mấy ngày nữa huynh hãy đi tìm Vương đại phu xem sao.

    Địch Thanh nghi hoặc gật gật đầu, đột nhiên nhớ tới chuyện tối hôm qua, hắn bèn nói:
    - Tiểu Quỳ, đệ lúc nào cũng nói mình rất có học vấn, huynh muốn đố đệ một câu.

    Quách Quỳ ngạc nhiên hỏi:
    - Huynh muốn đố đệ câu gì?

    Địch Thanh cởi giày, lấy tuyết trắng lau bùn nhơ dưới đế, thấp thỏm hỏi:
    - Đệ có biết tám chữ này có nghĩa gì không?

    Quách Quỳ nhận lấy giầy, bịt mũi lại than:
    - Huynh mấy ngày chưa rửa chân rồi?

    Địch Thanh nở nụ cười xấu hổ, nói tránh đi:
    - Đừng giả bộ đánh trống lảng nữa, không biết thì nói không biết. Được rồi, để huynh đi tìm người khác hỏi là được.

    Hắn giả vờ thò tay muốn giật giày lại, Quách Quỳ cầm giày lui về phía sau một bước, la lên:
    - Huynh quá xem thường đệ rồi đó, đây chẳng phải là tám chữ ‘Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung' sao? Có gì khó đâu chứ?

    Địch Thanh thấy Quách Quỳ đọc trôi chảy, không giống như đang lừa hắn, kỳ quái hỏi:
    - ‘Diêu diêu thảo trùng, thích thích phù thũng’(*) là nghĩa gì? Đá mấy cước thì tất nhiên là sưng phù rồi, ha ha.
    (‘Thảo trùng lay động, đá đá sưng phù’)

    Dứt lời, hắn cười gượng mấy tiếng. Hắn biết cô gái viết mấy chữ này, tuyệt đối không phải có ý này.

    Quách Quỳ nhìn Địch Thanh từ trên xuống dưới, cười ranh ma hỏi:
    - Huynh nói xem ... đôi giày này huynh mua ở đâu?

    Địch Thanh trả lời:
    - Đây là giày của quan gia, có vấn đề gì sao?

    Quách Quỳ trầm ngâm xem giày, xác định Địch Thanh nói không sai. Kinh thành có bát đại cấm quân, mỗi cấm quân đều có trang phục thống nhất. Vào mùa đông hằng năm, cơ quan quản lý trang phục mùa đông Độ Chi Bộ thuộc Tam Ti đều phát cho mỗi người hai đôi. Đại ca Quách Quỳ cũng mang giày giống vậy.

    - Vậy thì lạ nhỉ?
    Quách Quỳ rất ngạc nhiên hỏi:
    - Sao lại có người khắc tám chữ này lên giày của huynh chứ?

    Địch Thanh vốn muốn nói là mình khắc. Chỉ có điều hắn sợ Quách Quỳ nếu biết rồi thì sẽ không giải thích đúng ý, đã đâm lao đành phải theo lao, hắn nói:
    - Đúng vậy, kỳ quái thiệt, trong lúc vô tình huynh phát hiện đế giày của huynh có khắc tám chữ này, mấy ngày nay quên kiếm người để hỏi, hôm nay gặp đệ nên mới đố đệ. Đệ biết hai câu này có nghĩa là gì không? Không biết thì cứ nói không biết, huynh sẽ không cười nhạo đệ đâu.
    Hắn nói xong lại cười rộ lên.

    Quách Quỳ khịt mũi khinh thường nói:
    - Đệ đọc nhiều sách vở, thông cổ tri kim (biết thời xưa hiểu thời nay), sao lại không biết nghĩa của hai câu này chứ? Hai câu này ý nói, thảo trùng kêu vang ‘yêu yêu’(liu riu), châu chấu xung quanh nhảy về phía trước. ‘Yêu yêu’ là tiếng kêu của cào cào, ‘phụ chung’ là chỉ châu chấu, ‘địch địch’ là dáng nhảy lên của châu chấu. Sao nào? Huynh phục chưa?

    Địch Thanh biết được nghĩa của tám chữ này, đầu lại càng to ra, hắn thầm nhủ: ‘Nàng ấy viết tám chữ này là có ý gì?’ Hắn ra vẻ châm chọc nói:
    - Tiểu Quỳ, đệ đừng lừa huynh. Chắc đệ cho rằng nhị ca không biết chữ nên bịa đại một cái nghĩa. Khà khà! Bọn họ khắc dưới đế giày huynh tám chữ này, sao có thể là ý này chứ? Ôi chao, thật là kỳ lạ! Thôi được rồi, có lẽ huynh nên đi tìm vị đại nho nào đó có học vấn hỏi thử xem. Đệ à, cưng còn kém xa lắm.

    Hắn mang giày vào, xoay người định đi. Quách Quỳ không cam lòng, túm lấy Địch Thanh kéo lại mếu máo:
    - Huynh có thể khinh thường thành ý của đệ, nhưng không được sỉ nhục học vấn của đệ. Tám chữ này đúng là chẳng có nghĩa gì hết, nhưng ý là nằm ở mấy câu thơ sau kìa!

    Địch Thanh khẽ run, giả vờ không quan tâm hỏi:
    - Đằng sau như thế nào?

    Quách Quỳ lớn tiếng nói:
    - Đây vốn là một bài nằm trong Kinh Thi(1), tên là "Thảo Trùng(2)". Đằng sau hai câu 'Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung' là 'Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung'. (Không thấy quân tử, ưu tư bời bời)

    Lòng Địch Thanh chấn động, ngây ngẩn cả người.

    “Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung; vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung!”
    (Chấu kêu ti tỉ, cào nhảy loi choi. Không thấy quân tử, ưu tư bời bời.)

    Địch Thanh dù không thông hiểu sách vở lắm, nhưng cũng ít nhiều hiểu được hàm nghĩa bốn câu này. Giờ phút này, hắn chỉ muốn gào lên thật to, hóa ra nàng đang quan tâm mình! Khoảnh khắc này, trong sự vui sướng còn có ngọt ngào, trong cảm động lại xen lẫn thương cảm.

    Hắn chỉ là tên cấm quân tầm thường, lại buồn bực thất bại, mặc dù thích nàng nhưng không dám nói ra. Hắn thấy dung mạo nàng thoát tục, xinh đẹp tuyệt luân, chỉ nghĩ rằng có thể gặp được nàng, trò chuyện cùng nàng mấy câu thì đã là may mắn cả đời rồi. Nhưng đâu ngờ rằng, nàng cũng quan tâm tới hắn!

    Đầu Địch Thanh choáng váng, hạnh phúc đến nỗi lồng ngực muốn nổ tung.

    Quách Quỳ không để ý đến vẻ khác thường của Địch Thanh, cất tiếng giải thích:
    - Đây vốn là thơ tình nói về việc tình nhân đợi chờ ước hẹn, nhưng mãi không thấy được người trong lòng đâu cả, cho nên rất lo lắng. Ha ha, huynh không còn lời nào để nói nhé? Chắc là có anh chàng nào đó ở Độ Chi Bộ trong Tam Ti có ý với huynh nên mới khắc mấy chữ này lên giày huynh để thổ lộ tình ý.

    Nói xong, nó cười nắc nẻ, vô cùng hả hê.

    Địch Thanh phục hồi lại tinh thần, nhìn mặt trời ửng hồng mọc lên ở phương đông. Hắn nhớ ra hôm nay còn phải đi tuần, thầm kêu không tốt. Hắn vừa định rời đi, nhưng không dám chắc mới hỏi:
    - Tiểu Quỳ, đệ nói cái gì? Trong sách có viết sao?

    Quách Quỳ bĩu môi, xoay người chạy ùa về phòng, chỉ chốc lát sau nó đã mang tới quyển Kinh Thi ném cho Địch Thanh nói:
    - Huynh tự mình xem đi. Chẳng lẽ đệ lại đi lừa huynh, lẽ nào trong sách cũng đặc biệt viết riêng để lừa huynh sao?

    Nói xong, nó lắc lắc đầu, ngáp dài:
    - Bị tiếng múa quyền của huynh đánh thức, ra đây xem thế nào? Không nghĩ tới gặp phải người không có phẩm vị. Đệ trở về ngủ thêm một giấc mới được.

    Địch Thanh lật sách vùn vụt, cuối cùng tìm được bài "Thảo Trùng". Bốn câu đầu trong "Thảo Trùng" y như lời Quách Quỳ giải thích, phần sau còn có thêm ba câu nữa: "Diệc ký kiến chỉ, diệc ký cấu chỉ, ngã tâm tắc hàng." (Chỉ cần được gặp, được thấy mặt người, lòng này thảnh thơi.)

    Bên cạnh trang sách còn có ghi chú của Quách Quỳ, giải thích rằng: 'Cuối cùng gặp được người trong lòng, liền uống cạn một chén lớn.' Địch Thanh thầm nghĩ: "Quách Quỳ này giải thích không lưu loát gì hết trơn hết trọi, ý cảnh hoàn toàn không hợp với phần trước, giải thích chính xác phải là: ‘Cuối cùng gặp được người trong lòng, vậy là ta đã yên tâm.’

    Thơ chia làm ba đoạn nhưng ý thơ đều tương tự nhau. Địch Thanh cất sách rồi chạy nhanh khỏi Quách phủ. Nghĩ đến tám chữ "Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung", hắn nhịn không được cất tiếng hét to đồng thời lộn mèo một cái. Nhưng hắn lại nghĩ ‘Địch Thanh ơi Địch Thanh, người ta thì lo lắng mà ngươi còn vui vẻ được sao, không nên như vậy chứ.’ Nhưng rồi không kềm được vui vẻ trong lòng, hắn chạy một mạch như bay đến tận quân doanh.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile





    -------> Thảo luận <-------
    ---------> Góp ý <---------

    --------------------------
    Chú thích:

    (1) Kinh Thi (诗经): Thơ có từ bao giờ? Ðến nay chưa ai biết rõ. Những thi phẩm đầu tiên của nhân loại còn lưu đến ngày nay, ở Ðông phương là Kinh Thi, gồm 311 bài (sự thật có 305 bài và 6 đề mục, không có lời) xuất hiện từ đầu Tây Chu đến giữa Xuân Thu (tức là từ thế kỷ XI đến thế kỷ VI trước Công Nguyên). Hiện nay, theo nhiều nhà nghiên cứu, Kinh Thi là tập thơ do các quan âm nhạc triều Chu sưu tập, dựa trên công trình tìm kiếm của nhạc công các nước chư hầu. Bên cạnh số lớn ca dao còn có sáng tác của thi nhân và quý tộc soạn để phổ nhạc. Kinh Thi kết hợp với âm nhạc (thơ phổ nhạc), về sau chỉ ghi lại được phần lời là 305 bài thơ còn lại đến ngày nay. Trong quá trình biên soạn và sử dụng Kinh Thi, các quan âm nhạc và các nhà quý tộc, trong đó có Khổng Tử, đã chỉnh lý, sắp xếp ít nhiều về nội dung cũng như hình thức. Kinh Thi đã từng bị Tần Thủy Hoàng tiêu hủy, đến đời Hán mới sưu tập lại. Bản dùng hiện nay là của Mao Hanh, thường được gọi là Mao Thi. Lối thơ trong Kinh Thi rất tự do, không bị gò ép trong niêm luật, lời lẽ mộc mạc, tự nhiên, không đẽo gọt, trau chuốt.

    (2) Thảo Trùng (草虫): là một bài thơ tình nằm trong Kinh Thi, viết về nỗi nhớ nhung da diết của người phụ nữ với lang quân.

    Niên đại: 【 Tiên Tần 】
    Tác giả: 【 Kinh Thi 】
    Thi từ nguyên văn:

    喓喓草蟲、
    趯趯阜螽。
    未見君子、
    憂心忡忡。
    亦既見止、
    亦既覯止、
    我心則降。

    陟彼南山,
    言采其蕨。
    未见君子,
    忧心惙惙。
    亦既见止,
    亦既觏止,
    我心则说。

    陟彼南山,
    言采其薇。
    未见君子,
    忧心伤悲。
    亦既见止,
    亦既觏止,
    我心则夷。

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Hán Việt:

    Yêu yêu thảo trùng,
    Địch địch phụ chung.
    Vị kiến quân tử,
    Ưu tâm xung xung.
    Diệc ký kiến chỉ,
    Diệc ký cấu chỉ,
    Ngã tâm tắc hàng.

    Đồ bỉ nam sơn,
    Ngôn thải kỳ quyết.
    Vị kiến quân tử,
    Ưu tâm tuyết tuyết.
    Diệc ký kiến chỉ,
    Diệc ký cấu chỉ,
    Ngã tâm tắc thuyết.

    Trắc bỉ nam sơn,
    Ngôn thải kỳ vi.
    Vị kiến quân tử,
    Ưu tâm thương bi.
    Diệc ký kiến chỉ,
    Diệc ký cấu chỉ,
    Ngã tâm tắc di.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Dịch thơ:

    Chấu kêu ti tỉ
    Cào nhảy loi choi
    Không thấy quân tử
    Ưu tư bời bời
    Chỉ cần được gặp
    Được thấy mặt người
    Lòng này thảnh thơi.

    Trèo lên Nam Sơn
    Nói đi hái Quyết
    Không gặp được chàng
    Nhớ nhung da diết
    Không được thấy mặt
    Chẳng được nghe lời
    Lòng buồn khôn xiết

    Trèo lên Nam Sơn
    Nói hái rau Vi
    Thiếu người trong mộng
    Tim thiếp sầu bi
    Không được thấy mặt
    Chẳng được nghe lời
    Thương nhớ đầy vơi
    (Dịch: oIo)

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Châu chấu rền rĩ khắp trời
    Cào cào xao xác rối bời nhảy quanh
    Thiếp không được thấy bóng chàng
    Là còn đằng đẵng muôn vàn âu lo
    Một lần gặp cũng đủ cho
    Con tim u uẩn hết bao tủi hờn
    Thiếp đi khắp đỉnh Nam Sơn
    Nói là hái Quyết tìm duyên gặp chàng
    Nhớ nhung da diết vô vàn
    Không nghe không thấy lòng càng lo âu
    Nam Sơn thiếp kiếm bấy lâu
    Rau Vi nói hái, mong cầu người thương
    Thiếu người trong mộng tơ vương
    Trái tim này mãi con đường sầu bi
    Không thấy mặt, chẳng nghe lời
    Thương thương nhớ nhớ đầy vơi nỗi lòng

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Lần sửa cuối bởi Thiên Kim, ngày 25-06-2012 lúc 10:44.

    Sống không giận không hờn không oán trách
    Sống mỉm cười với thử thách chông gai
    Sống vươn lên theo nhịp ánh ban mai
    Sống hòa nhịp với những người chung sống
    Sống là động nhưng lòng luôn bất động
    Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
    Sống an vui danh lợi mãi coi thường
    Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến

    Hidden Content

    ---QC---


  10. Bài viết được 33 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
Trang 3 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status