--------------------------
Chú thích:
(1),(2) Hàn Tín(韩信): (229 – 196 TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu, là một danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch: "cầm quân trăm vạn, đánh tất thắng, công tất lấy" thời Hán Sở tranh hùng, là một trong "tam kiệt nhà Hán" có công rất lớn giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.
Theo sách Tây Hán chí thì Hàn Tín là người ở Hoài Âm (nước Sở). Cha mẹ mất sớm phải sống côi cút từ bé, nhà nghèo phải làm nghề câu cá. Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ. Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng. Có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng y. Mọi người thấy Tín bị nhục đều chê cười. Có hôm không câu được cá, Tín không có gì ăn, thường đi xin cơm của bà lão giặt lụa và hứa hẹn sau này làm nên sự nghiệp sẽ trả ơn ngàn vàng. Bà lão giặt lụa trách: "cậu là thanh niên trai tráng mà không lo nổi miếng ăn thì làm sao làm nên sự nghiệp, tôi giúp cậu chỉ vì thấy tội chứ có mong cậu báo đáp làm chi".
Mọi người thấy thế đều cho ông là người thấp kém, hèn hạ.
(3) Phủ doãn: thẩm phán, chánh án.
(4) Ngục tốt: lính canh ngục.
(5) Thôi quan: ở đây tương đương trợ lý, làm nhiệm vụ nghị án.
(6) Kinh Đường mộc: Cục gỗ để vỗ lên bàn tạo âm thanh uy nghiêm.
(7) Cửu Tự Ngũ Giám (九寺五监): là các ban ngành độc lập với chức năng trung ương, thành lập vào thời Đường. Về cơ bản là cùng cấp quan chức với Thượng thư Lục bộ, không có quan hệ lệ thuộc về pháp định với Lục bộ, nhưng chức quyền lại chồng chéo với Lục bộ rất nhiều, thực tế thì tồn tại quan hệ phân công cùng chế ước lẫn nhau. Lục bộ chủ quản chính lệnh, Cửu Tự Ngũ Giám phân biệt phụ trách các mặt sự vụ cụ thể.
- Cửu Tự (九寺): + Thái Phủ tự: thuộc bộ Hộ — quản lý tiền tệ.
+ Ti Nông tự: thuộc bộ Bộ — quản lý lương thực.
+ Tông Chính tự: thuộc bộ Lễ — quản lý hoàng tộc.
+ Thái Thường tự: thuộc bộ Lễ — quản lý tế tự.
+ Quang Lộc tự: thuộc bộ Lễ — quản lý ăn uống.
+ Hồng Lư tự: thuộc bộ Lễ — quản lý ngoại giao.
+ Vệ Úy tự: thuộc bộ Binh — quản lý quân khí.
+ Thái Bộc tự: thuộc bộ Binh — quản lý xe ngựa.
+ Đại Lý tự: thuộc bộ Hình — quản lý tư pháp.
Có một Thiết khanh, hai Thiếu khanh, Tự Thừa quản lý sự vụ hằng ngày.
Mình không tìm được chức quan Tự Sự, chắc có lẽ thấp hơn Tự Thừa. Ai có thông tin thì góp ý mình nhé.
- Ngũ Giám (五监):
+ Quốc Tử giám: thuộc bộ Lễ — học phủ tối cao trong hệ thống giáo dục, đồng thời quản lý bộ máy giáo dục của quốc gia.
+ Quân Khí giám: thuộc bộ Binh — chế tạo và sửa chữa vũ khí.
+ Thiếu Phủ giám: thuộc bộ Công — quản lý chi tiêu cung đình, chế tác quần áo cho Hoàng đế, Hoàng hậu, phi tần và quan lại.
+ Tương Tác giám: thuộc bộ Công — quản lý công trình bằng gỗ: cung điện, vách thành, thiết kế và xây dựng dịch sở.
+ Đô Thủy giám: thuộc bộ Công — quản lý sông ngòi, bến cảng, đê điều, thủy lợi, ngư nghiệp...
(8) Đại Lý tự (大理寺): là một trong Cửu Tự, tương đương với toà án tối cao bây giờ. Quản lý Hình ngục, thẩm tra xử lí án kiện. Thời Tần, Hán là Đình Úy, thời Bắc Tề là Đại Lý tự, nhiều triều đại tiếp theo đều như vậy, đến đời Thanh là Đại Lý viện.
(9) Quốc Tử giám (国子监): là cơ quan đào tạo giáo dục cấp trung ương tại các nước Á Đông thời phong kiến Nho giáo. Ở Trung Quốc, Quốc Tử giám đầu tiên xuất hiện sau thời nhà Tuỳ. Mỗi triều đại sau đó đều lập Quốc Tử giám tại kinh đô của mình - Trường An, Lạc Dương, Khai Phong, Nam Kinh. Kể từ thời nhà Minh thì có tới hai Quốc Tử Giám: một ở Nam Kinh và một ở Bắc Kinh.
(10) Vệ Úy tự (卫尉寺): là một trong Cửu Tự, một cơ quan công sở của Trung Quốc xưa. Thời Bắc Tề thiết lập nên Vệ Úy tự, Vệ Úy đổi tên thành Vệ Úy Tự khanh hoặc Vệ Úy khanh, quan phụ tá gọi là Vệ Úy Thiếu khanh. Quản lý nghi trượng lều vải (vũ khí, quạt, dù, cờ... mà đội hộ vệ mang theo khi vua, quan lại đi tuần hành thời xưa). Đến thời Tần Hán thì đã thành chức quan nhàn tản. Kéo dài đến triều đại Nam Tống thì được nhập vào bộ Công.
(11) 'Kiêm thính tắc minh, thiên tín tắc ám': nghe ý kiến nhiều phía, nhiều mặt mới có thể nhận thức chính xác sự vật, chỉ tin lời nói phiến diện đơn phương sẽ dẫn đến sai lầm.
(12) 'Vu cáo phản tọa': lấy tội danh và hình phạt của người bị vu cáo ghép cho kẻ vu cáo.