I. Lời nói đầu
Tiểu thuyết (đoản thiên và trường thiên) là xương sống của văn học, vừa là một loại hình nghệ thuật, vừa là một công cụ để miêu tả cuộc sống. Vì nó là nghệ thuật, nên nó cũng muôn hình muôn vẻ như các môn nghệ thuật khác. Vì nó là công cụ để miêu tả cuộc sống, nên nó cũng phức tạp và rộng lớn như cuộc sống. Đã phức tạp và rộng lớn lại nhiều hình dáng màu sắc, lẽ dĩ nhiên không thể lấy cái khuôn nào làm chuẩn, không thể lấy cái thang điểm nào mà đo lường chính xác được. Bởi vậy, việc so sánh giữa các tác phẩm đã khó, việc định lượng giá trị của từng tác phẩm lại khó hơn gấp bội.
Văn thơ viết ra, muôn đời cũng chỉ nhằm vào hai chữ "hay, dở" để mà phân hạng. Việc chấm điểm của tại hạ cũng dựa vào hai chữ đó mà thôi. "Hay, dở" là do cảm nhận, không phải do thế lực siêu nhiên nào quy định ra, cũng không có công thức nào quy định ra, bởi vậy tại hạ sẽ chỉ coi cái thang điểm mà ban tổ chức đưa cho là "tài liệu tham khảo" mà thôi, chứ không tuyệt đối dựa vào nó như một chân lý, mong các vị thông cảm.
Đã nhằm vào hai chữ "hay, dở" thì cũng xin nói rõ quan điểm của tại hạ về hai chữ ấy.
Thật vô lý khi chê bai tình tiết của một tác phẩm bàn về nghệ thuật, thật buồn cười khi chê bai cách xây dựng xã hội của một tác giả chỉ chủ trương khai phá nội tâm. Tiểu thuyết có khi không cần đến khả năng làm văn, có khi không cần đến cốt truyện, thậm chí nhân vật cũng chỉ hiện ra nhợt nhạt lòa nhòa cho có mà thôi. Cái căn bản nhất của tiểu thuyết không phải nằm ở nội dung hay hình thức, nhân vật hay tình tiết, nghệ thuật hay tư tưởng. Cái căn bản nhất của tiểu thuyết nằm ở dụng ý của tác giả và sự thành công trong việc triển khai dụng ý đó. (Truyện Kiều cốt truyện và tình tiết tầm thường, hơn nữa còn là do Nguyễn Du "đạo" ở một quyển dâm thư bên Tàu. Truyện Lục Vân Tiên cục mịch thô thiển, nhiều chỗ ghép vần gượng ép, hoặc thậm chí gượng ép không nổi, đọc lên thấy ngang phè phè..
Vậy nếu theo thang điểm của ban tổ chức mà chấm, những tác phẩm đó đáng cho mấy điểm?)
Tiêu chuẩn "hay, dở" của tại hạ chỉ nằm ở hai điểm chính yếu. Thứ nhất, nó có cuốn hút tại hạ từ đầu đến cuối hay không? Thứ hai, khi đọc xong rồi nó đọng lại trong lòng tại hạ được cái gì? Đơn giản thế thôi nhưng có khi do một điểm tuyệt đối xuất sắc nào đó, khiến cho tại hạ không phục không được thì tại hạ vẫn cho điểm cao, bất kể tác phẩm có cuốn hút hay không, bất kể đọc xong nó gây ra cảm giác thế nào.
Nói chung, tiêu chuẩn chỉ nêu ra cho có, cuối cùng cũng chưa chắc đã dựa vào.
Kiếm hiệp là một loại hình văn học đặc biệt. Nó đặc biệt như thế nào khỏi nói nữa, giờ chỉ xin nhấn mạnh ở hai chữ "loại hình".
"Loại hình" tức là vẻ bề ngoài. Vẻ bề ngoài có thể chỉ là nước sơn, nhưng cũng có thể là cái khung nâng đỡ toàn bộ phần bên trong. Bởi vậy tại hạ không quan tâm chuyện cái vỏ đó dày hay mỏng, đơn giản hay phức tạp, tỉ mỉ hay thô phác. Tại hạ chỉ quan tâm đến chuyện nó có phải là cái vỏ kiếm hiệp hay không, coi nó như một tiền đề khẳng định tư cách dự thi của tác giả, chứ không dựa vào nó để phân định hơn kém. Truyện có thể chỉ dựa vào mối quan hệ trong thế giới kiếm hiệp, hoàn toàn không có giao chiến. Hoặc có thể từ đầu đến cuối chỉ là một trận giao chiến, hoàn toàn không có quan hệ xã hội nào. Tất cả đều không ảnh hưởng đến điểm do tại hạ chấm cho nó.
Một điểm mà tại hạ sẽ chấm điểm thưởng, đó là sự sáng tạo. Thế giới không đi lùi là nhờ sự kế thừa, nhưng phát triển là nhờ sáng tạo. Kế thừa thì tất nhiên truyện nào cũng có tính kế thừa rồi, nhưng sáng tạo thì chưa chắc.
Tại hạ sẽ không thưởng điểm cho một nhân vật giống như Kiều Phong, Vi Tiểu Bảo hay Lý Tầm Hoan. Tại hạ sẽ không thưởng điểm cho những cốt truyện viết theo những lối mòn cũ, triển khai những ý tưởng cũ. Tại hạ sẽ không thưởng điểm cho tác phẩm vì nó được viết bằng thơ, cho dù thơ hay hơn Truyện Kiều.
Ngược lại, có thể một tác phẩm tầm thường nhưng sẽ được tại hạ thưởng điểm, nếu nó có một phát kiến mới lạ nào đó.
Bây giờ đến phần chấm thi cụ thể
II. Bình luận truyện ngắn
Truyện số 1, Tịch Dương Chi Luyến
Tịch Dương Chi Luyến miêu tả không gian nội tâm của một nữ nhân sống ở thời cận đại Trung Quốc. Tác giả đã khai thác mâu thuẫn nội tâm của một người vừa làm mẹ, vừa đang yêu, lại vừa bị kiềm tỏa bởi bốn bức tường thế gia vọng tộc.
Thế giới trong truyện hiện lên nhạt nhòa, giống như bị bao phủ bởi một lớp khói thời gian, có vẻ gì đó vừa cổ kính trang nghiêm vừa u tối trầm buồn. Ẩn dấu đằng sau sự trầm cổ đó là những nỗi đau liên miên, là những quằn quại của một xã hội không được sống dưới ánh nắng, là những kiếp người yếu đuối bị kèm cặp bởi những lề lối cứng nhắc tàn ác, những quan niệm bất bình đẳng, cực đoan, vô lý về đạo đức, về danh dự, tình cảm. Tất cả những nhân vật trong truyện đều không đủ sức, hoặc không hề muốn xóa tan bức màn đó. Họ sống một cách cam phận, vô thức, chỉ biết đau khổ một cách ngu muội.
Ngay trong những cảnh giao chiến, tác giả cũng tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên lý võ học, không để cho tưởng tượng của mình vượt ra ngoài khuôn phép, không để cho nhân vật tự do thi triển bản lãnh. Tất cả mọi thứ, kể cả thắng bại tồn vong, hình như đều đã được một bàn tay vô hình sắp xếp, con người không có cách gì vượt ra khỏi sự khống chế của lực lượng đó, vĩnh viễn làm nô lệ, vĩnh viễn sống trong bóng tối.
Sự chiến thắng của tình cảm mẫu tử ở cuối truyện có thể dự đoán trước, nhưng tác giả vẫn để nhân vật chính đi đến chỗ hẹn. Nàng đến không phải để băn khoăn, tiếc nuối, mà là để lại gần, để chạm vào ước mơ. Nàng bỏ đi vì nàng biết rằng giấc mơ đó không có thật, nó nằm ngoài sở hữu của nàng.
Các nhân vật đều chủ yếu hiện ra qua số phận chứ không phải tính cách. Những mẫu người dường như được định sẵn do vị trí xã hội, đều rất chung chung, ước lệ. Điều này rất phù hợp với không gian truyện, bởi vậy nếu chê bai rằng nhân vật không rõ hình thì thật không phải, thế nhưng, dù sao tại hạ vẫn thấy không được vừa ý cho lắm. Đó là cảm nhận riêng, mong tác giả miễn chấp.
Còn một thắc mắc nho nhỏ nữa, Mã gia ở Hà Nam này nếu là hậu nhân của Mã Học Lễ thì phải là người Hồi, tác giả không nói rõ nhưng xem ra cách sinh hoạt của họ không giống người Hồi lắm. Hơn nữa năm 1739 thì Mã Học Lễ mới có 24 tuổi, thật không thể suy luận ra Mã lão gia ở đây là nhân vật nào, bởi vì sư phụ dạy Tâm Ý Lục Hợp Quyền cho Mã Học Lễ lại là người họ Trịnh, dạy cho người họ Trịnh là Cơ Tế Khả, học trò của Cơ Tế Khả còn một người nữa, nhưng lại tên là Tào Kế Võ. Không tìm đâu ra Mã lão gia.
Một điểm không chính xác nữa, tác giả có đề cập đến Minh Kình, Ám Kình và Hóa Kình. Đã không đề cập đến thì thôi, đã đề cập đến thì tại hạ phải nói cho rõ. Minh Kình, Ám Kình và Hóa Kình không phải là các loại chiêu pháp để có thể truyền dạy hay học tập, đó chỉ là các cảnh giới trong Tâm Ý Lục Hợp Quyền, tùy vào tư chất và công phu luyện tập mà đạt được.
Tại hạ "bới móc" những điều này ra không phải để khoe khoang kiến thức (google đầy), cũng không phải để lấy cớ trừ điểm tác giả mà chỉ muốn nói với tác giả rằng: Không viết cụ thể thì thôi, đã viết cụ thể về một môn phái thì phải tra cứu cho rõ ràng, để khỏi làm giảm giá trị của tác phẩm. Những sai sót đó hoàn toàn có thể dùng sự tỉ mỉ cẩn thận để khắc phục ngay từ đầu, công sức bỏ ra thêm cũng chẳng đáng là bao.
Kết luận: Tác giả là một người rất sâu sắc, dụng ý rất rõ ràng nhưng lại miêu tả một cách gián tiếp, dường như không muốn độc giả dễ dàng cảm thụ. Tuy còn nhiều hạn chế về mặt tra cứu thông tin cũng như xây dựng nhân vật, nhưng tại hạ đánh giá cao sự thâm trầm già dặn trong bút pháp, xin tặng 75 điểm.
Truyện số 3, Thiên Địa Nhân
Thiên Địa Nhân dùng bối cảnh hiện đại để mở đầu câu chuyện, không khí vui nhộn tươi trẻ, không gian quen thuộc, tác giả thậm chí không ngần ngại chỉ mặt chỉ tên những địa chỉ cụ thể của thành phố Hà Nội, thời gian cũng là thời gian thực, không cần xê dịch biến chuyển. Điều này lẽ ra làm tăng tính hiện thực cho tác phẩm, nhưng với một thể loại có hàm lượng tưởng tượng cao như kiếm hiệp, có lẽ những điều quá sát với hiện thực đó lại gây ra phản cảm. Hơn nữa ngôn ngữ của tác giả không có vẻ khách quan của văn hiện thực, không có vẻ đa sắc đa tầng của văn lãng mạn, đơn giản đó chỉ là lời kể chuyện theo kiểu văn nói.
Như đã nói ở phần lời nói đầu, tác giả tiểu thuyết không nhất thiết phải giỏi làm văn, hơn nữa viết tiểu thuyết chính là kể chuyện, nhưng kể chuyện kiểu tiểu thuyết khác với kể chuyện kiểu cổ tích "bà kể cháu nghe", càng khác với kiểu kể chuyện của bạn bè lúc trà dư tửu hậu. Ngôn ngữ của tiểu thuyết là thứ ngôn ngữ của cuộc sống, không giống ngôn ngữ cường điệu của kịch nói, của tiểu phẩm. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết có thể thông tục, dân dã, nhưng đó là do câu chuyện nó thông tục, dân dã, chứ không phải do nhà tiểu thuyết.Về điểm này, thứ lỗi cho tạ hạ vì đứng trên quan điểm của một người viết tiểu thuyết nên đã quá khắt khe, rất mong tác giả sẽ cố gắng hoàn thiện hơn kỹ năng ngôn ngữ của mình. Khi viết, chỉ cần nhớ rằng phải làm cho độc giả hòa mình vào không gian của câu chuyện, chứ không phải phô diễn ngôn ngữ của chính mình; không phải đang diễn thuyết hay tâm sự cho độc giả nghe. Vậy là đủ!
Những điều tác giả tưởng tượng, sáng tạo về bộ 3 chiếc trống đồng cũng có nhiều điểm chưa được kỹ lưỡng. Thứ nhất, niên đại của chiếc trống là trước thời đại nước ta bị văn hóa phương Bắc ảnh hưởng, nhưng trên ba chiếc trống lại mang đầy các hình tượng của văn hóa phương bắc như rồng, phượng.... Tệ hơn nữa, trên mỗi chiếc trống lại viết lù lù một chữ Hán (Thiên, Địa, Nhân), tác giả lập tức kết luận: Nền văn hóa nước ta phát triển từ rất sớm.
Nếu theo như những gì mà tác giả nói, thì chính xác là chúng ta học lỏm từ quá sớm mới đúng. "Rồng phượng" hay "thiên địa nhân" không thể là chứng cứ của sự phát triển văn hóa, nó chỉ là những biểu tượng của một nền triết học phương Bắc sau này mới phát triển rực rỡ (rồi lan xuống phía Nam). Ở nước ta, rồng phượng xuất hiện sau chim Lạc, nhưng không thể nói rồng phượng là văn hóa tiên tiến còn chim Lạc là văn hóa lạc hậu được.
Tác giả còn nhắc đến một câu: "Ai cũng biết trống đồng là một nét rất đặc trưng của nền văn hóa Đông Sơn rồi, thế nhưng phủ Thừa Thiên khi xưa thì lại đâu có nằm trong vùng văn hóa Đông Sơn đâu." Không hiểu tác giả nghĩ gì khi dùng cụm từ Phủ Thừa Thiên? Hiện nay không ai dùng từ đó, thời điểm xuất hiện của cái trống đồng thì càng không. Chẳng lẽ tác giả cho một nhân vật hiện đại, gọi một địa danh thời cổ đại bằng một cái tên trung cổ? Không những thế, dường như tác giả chẳng hề băn khoăn chút nào khi để cho bản đồ Việt Nam hiện đại xuất hiện trong một hiện vật có từ cách đây mấy nghìn năm.
Những lỗi như vậy kể ra rất nhiều, nhưng một phần vì thời gian hạn hẹp, phần khác vì moi móc ra cũng chẳng ích lợi gì, tại hạ có thể kết luận như sau: Đây là một cốt truyện diễn tiến nhanh, không có nhiều khúc chiết. Tác giả đã cố gắng sáng tạo ra nhiều chi tiết huyễn hoặc, dựa trên những biểu tượng văn hóa, những truyền thuyết và cả những câu chuyện có thật từ xa xưa để tạo ra sự độc đáo riêng biệt. Tác giả đã có ý thức đề cao văn hóa, lịch sử dân tộc, nhưng nhiều chỗ còn chưa suy nghĩ thấu đáo, dẫn đến những sai lầm đáng tiếc, dụng ý tốt đẹp đó cũng bị ảnh hưởng đi ít nhiều.
Xin chấm truyện này 40 điểm, thưởng thêm 5 điểm sáng tạo và 5 điểm "hồn nhiên". Tổng cộng là 50 điểm.
Truyện số 4, Mê
Nam Cao là một tượng đài vĩ đại. Ông là một nhà văn, một thiên tài xử lý ngôn ngữ, và cũng là một con người đầy lòng nhân ái. Văn chương của ông rực sáng suốt hơn nửa thế kỷ, giống như ngọn Hải Đăng soi đường cho lớp lớp nhà văn hậu sinh. Bởi vậy hôm nay, dù cảm thấy thứ văn chương từng khuynh đảo văn đàn ấy đột nhiên xuất hiện giữa cuộc thi Kim Bút, trong truyện ngắn có cái tựa đề rất ngắn: Mê, thì tại hạ cũng không ngạc nhiên.
Vô cùng vui mừng nhưng không ngạc nhiên.
Ngay từ những dòng đầu tiên, tác giả đã tức khắc tỏ ra là một cao thủ ngôn ngữ. Tuy rằng không tránh khỏi có một số từ ngữ, thủ pháp là do tiền nhân sáng tạo ra, tác giả chỉ là người dùng lại, nhưng sự thuần thục đến độ tự nhiên phóng khoáng ấy, sự cẩn trọng tỉ mỉ trong từng biện pháp tu từ ấy là của tác giả - là sức lao động và tài năng chân chính của tác giả. Quá tốt, quá phù hợp với văn cảnh - đó là những nhận xét của tại hạ về ngôn ngữ, liên tục được thốt ra khi đọc tác phẩm này.
Những cụm từ, những câu văn như:
"Người đàn bà vẹo vọ ngồi cạnh ổ rơm, tay len lén chạm vào đứa con trai xanh mướt oặt oẹo..."
"Mười bảy đám tang não nề, mù giời ngập đường thứ tiền tệ không lưu hành nơi dương thế..."
"Phải làm bật lên nhiều nỗi ưu thời mẫn thế, đầy đủ các sắc thái trải rộng từ hào hứng nông nổi cho tới nghiêm cẩn thâm sâu...."
"Từ hảo hán đồng bằng đến anh hùng miền ngược, ai ai cũng bé giọng, mắt sáng lên thứ ánh sáng tỉnh táo đề phòng, đầu hạ thấp, khiêm nhường bày tỏ ý kiến..."Vân vân...
Một người mới chập chững bước vào nghề cầm bút không thể viết ra nổi.
Nhưng...
Có điều một số cụm từ đã quá nổi tiếng như "ầng ậng nước", thật ra không nên dùng lại. Nó quá hay để người ta có thể dùng lại giống như là của mình, dùng kiểu gì vẫn không thoát ra được cảm giác sao chép của tiền nhân. Rồi từ "cum cúp" đã xuất hiện hai lần trong tác phẩm, vì nó hay, ấn tượng nên khi tác giả lặp lại lần thứ hai ở một văn cảnh khác, tự nhiên có cảm giác tác giả hoặc bí từ, hoặc cố khoe khoang tài năng ngôn ngữ. Sự tự nhiên phóng khoáng vì thế bị sứt mẻ ít nhiều.
Tất cả ánh hào quang quá khứ đó, nhằm xây dựng một thế giới nhập nhoạng như một cơn mê thoắt ẩn thoắt hiện, liên tục xoay qua những cảnh khác nhau như đêm và ngày. Có lẽ tác giả muốn nói đến sự vô nghĩa của những chém giết khốc liệt trên giang hồ, những gì hào nhoáng, những gì thâm trầm, những gì thần bí, những gì tàn ác, những gì cao khiết... cuối cùng cũng chỉ nhận lấy một kết cục là kiếm chẻ dọc đầu, chỉ có tình cảm của người mẹ với đứa con đang thoi thóp trong ổ rơm là mạnh mẽ, là trường tồn mãi mãi. Có lẽ là vậy, đoán già đoán non thế thôi, bởi vì đây là một tác phẩm chưa chín, có sự khập khiễng đáng kể giữa hình thức và nội dung, giữa mục đích và cách triển khai, giữa cách mở đầu và kết thúc. Hai thế giới mà tác giả xây dựng tách biệt một cách quá cực đoan, tựa như không liên quan gì đến nhau. Chính vì vậy, sự liên tưởng lẽ ra cần phải khơi gợi thì lại bị chặt đứt đi mất, tựa như hai câu chuyện song song viết chen lẫn vào nhau mà thôi.
Văn hiện đại không nhất thiết phải có cốt truyện, nhưng tại hạ không thích những thứ cao siêu, thần bí. Nhất là khi sự cao siêu thần bí ấy lại dùng để miêu tả tình mẫu tử vô cùng gần gũi thân thuộc, nhất là khi tác giả đã bày tỏ sự ác cảm của chính mình với sự cao siêu thần bí của giang hồ.
Bởi vậy, lan tràn trong tâm tưởng của tại hạ lúc này chỉ là sự bất mãn.
Nam Cao vẫn còn ở quá xa, chỉ có một cái bóng hiện về trong giấc mơ, câm lặng, chẳng nói gì.
Xin được chấm 65 điểm.
Truyện số 5, Đế Vương Bi Mộng
Tác giả rất giỏi trong tả cảnh, nhất là các hoạt cảnh. Chiến trận mấy trăm người tham gia, dữ dội thế nào, khốc liệt làm sao, tất cả đều được thể hiện rành mạch như chính mắt trông thấy. Thật tài hoa. Có điều tuy tác giả là cao thủ tả cảnh, nhưng lại không phải cao thủ tả người. Các nhân vật mới chỉ được giới thiệu mỗi cái tên là lập tức lao vào chém giết lộn bậy, không cho độc giả có cơ hội nắm bắt được hình dáng, thần thái, tính cách... thậm chí đến trận đánh thứ hai tại hạ mới ngỡ ngàng nhận ra giới tính của Diệp Minh Minh. Bởi không nắm được nhân vật, nên tại hạ cũng chẳng có cảm tình yêu ghét gì với nhân vật, thành ra chiến trận tuy khốc liệt, tuy như xảy ra ngay trước mắt, nhưng tại hạ lại đón nhận bằng con mắt bàng quan thờ ơ, không thể chăm chú theo dõi được.
Có điều thứ mà tác giả tập trung miêu tả không phải là nhân vật hay chiến trận, mà là những âm mưu tranh quyền đoạt lợi chốn hoàng cung. Đề tài này đã gặp rất nhiều trên phim ảnh cũng như tiểu thuyết, nhưng không vì thế mà nhàm chán, bởi vì trí tuệ và mưu kế của loài người là muôn hình vạn trạng, thiên biến vạn hóa, luôn luôn khiến người ta háo hức theo dõi. Trong Đế Vương Bi Mộng, tác giả xây dựng một nhân vật Thái Tử tuổi còn trẻ nhưng vô cùng thâm sâu, tàn ác, lạnh lùng. Có thể nói đây là nhân vật khá thành công, hình ảnh của anh ta rất ấn tượng, vượt lên hẳn các nhân vật khác. Tuy vậy có lẽ do tác giả quá "tham lam", làm cho "mưu kế ken dày từng dòng chữ", lại dồn hết vào cho hai nhân vật, thành ra vừa chồng chéo lên nhau lại vừa thiếu sự cô đọng sâu sắc. Nổi bật lên có chẳng chỉ là sự tráo trở, gian xảo chứ không phải những kỳ mưu thực sự cao minh.
Nói chung đây là một truyện không có nhiều thứ để bàn, tình cảm hay những quan hệ trong truyện khá mờ nhạt, lẽ ra mờ nhạt như thế thì tác giả cứ mạnh tay bỏ phứt đi, tập trung vào việc sắp xếp mưu kế, tính toán đường đi nước bước cho nhân vật thật chặt chẽ, đồng thời tạo thêm chút gay cấn hồi hộp để lôi cuốn độc giả thì thành công sẽ lớn hơn nhiều.
Với Đế Vương Bi Mộng, xin được chấm 70 điểm.
Truyện số 6, Hồi Ức
Tại hạ vẫn cho rằng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 rất phù hợp với thế giới kiếm hiệp, bởi vì đó là xã hội đầy rẫy những áp bức, không hề có công bằng xã hội. Đó là xã hội làm lương dân khó hơn làm lưu manh, từ nông thôn đến thành thị đầy rẫy những "kẻ giang hồ" sống an nhiên trước mũi pháp luật - thứ pháp luật không bênh vực cho người yếu.
Hồi Ức khai thác thế giới ấy có thể coi là một lựa chọn đúng đắn, thế giới hiện liên quả nhiên rất "giang hồ", nhưng đáng tiếc lại là giang hồ Tàu. Tuy vậy, điều này cũng không phải là điều quan trọng, bởi vì như tác giả đã nói, đây là câu chuyện mang chủ đề tình cảm.
Nhắc đến tình cảm, trước hết phải đề cập tới con người. Ở trong truyện ngắn Hồi Ức, các nhân vật hiện lên rất có phong vị, mỗi người đều có hình ảnh riêng, cá tính riêng, có tình cảm riêng. Điều này nghe có vẻ đương nhiên, nhưng thực ra để xây dựng được một hệ thống nhân vật như thế không phải là điều dễ dàng, nhất là trong giới hạn một truyện ngắn mấy chục trang. Truyện ngắn này có thể phát triển thành một truyện dài, bởi vì bối cảnh còn ẩn chứa rất nhiều tiềm năng, rất nhiều thứ tình cảm chưa được khai thác một cách tận cùng.
Tác giả của Hồi Ức có lẽ không quá tham vọng, bởi vậy mọi thứ kết thúc chóng vánh - một kết thúc đẹp, nhưng không nằm ngoài dự đoán. Nói cách khác, cái kết ấy không thực sự xứng đáng với sự chuẩn bị của sự mở đầu, không có những bất ngờ ghi khắc dấu ấn vào trong lòng người đọc.
Hồi Ức một truyện nhẹ nhàng, nhưng có sức lôi cuối, có điều không có nhiều hương vị đọng lại, đọc xong dễ dàng quên được ngay. Cũng chính phẩm chất ấy khiến cho đây là một truyện có tiềm năng, những truyện như vậy không khó để khẳng định chỗ đứng trên thị trường văn học trẻ nước ta.
Xin được tặng Hồi Ức 70 điểm.
Truyện số 7, Loạn Tình Chiến
Mở đầu rất thú vị. Nhân vật xuất hiện ấn tượng đến nỗi khiến tại hạ phải kinh ngạc. Lời văn cũng rất tuyệt, nhuần nhuyễn và rõ ràng rành mạch, tuy giản dị nhưng rất thông minh hóm hỉnh, nhờ vậy đã mang đến những hiệu quả đặc biệt. Đối với một người cầm bút, trí thông minh và khả năng ngôn ngữ là rất quan trọng, đó là hai yếu tố phần nhiều là do bẩm sinh chứ không phải do luyện tập.
Bởi vậy, không nghi ngờ gì nữa, đây là một cây bút rất tiềm năng.
Mở đầu tuy thú vị, nhân vật xuất hiện tuy ấn tượng, nhưng về sau mạch truyện lại càng thú vị hơn, nhân vật lại càng ấn tượng hơn. Những lời đối đáp qua lại, những câu bông đùa trêu ghẹo cứ nhẹ nhàng như mây trôi nước chảy mà tuôn ra, hơn nữa còn hàm chứa trí tuệ sắc sảo và vốn ngôn ngữ phong phú của tác giả, khiến người ta phải cười lên thống khoái, muốn không phục cũng không được.
Vì thế, sức lôi cuốn đương nhiên càng không phải bàn.
Tuy nhiên, sức lôi cuốn là một chuyện, thông minh hóm hỉnh là một chuyện, sự sâu sắc uyên bác lại là một chuyện khác. Có thể nói đây là một truyện khá dễ dãi, hời hợt, biến chuyển tâm lý không thực sự thuyết phục.
Kết thúc rất dễ đoán, điều đó không phải là vấn đề lớn, vấn đề là tác giả không đầu tư đúng mức cho cốt truyện, tình tiết, kể cả võ công cũng qua quýt cho có mà thôi. Đúng vậy, tại hạ chê để mà khen, khen để mà chê, nếu tác giả chịu khó sử dụng đầu óc của mình một cách nghiêm túc hơn, trăn trở với nghề viết nhiều hơn, nhất định có thể cho ra những tác phẩm để đời.
Có điều đọc đến chỗ cái gì Hoàn Thị Song Hiệp, Du Thẩm Thẩm của Thiết Phiến Môn, Giao Long Lục Hợp Song Hùng, Thất Hồn Thủ Quân Minh của Bắc Cực Phái... tự nhiên tại hạ cảm thấy hình như đầu óc mình đen tối quá.
Xin được tặng tác giả của Loạn Tình Chiến 80 điểm.
Truyện số 8, Nhật Ký Cụ Rùa
Đây là truyện khác lạ nhất trong số những truyện ngắn tại hạ đọc từ đầu cuộc thi tới giờ.
Tác giả viết theo lối tiểu phẩm, khá giống với những đoạn kịch vui chiếu trên truyền hình những dịp cuối năm, nếu sửa sang đi một chút có khi tiểu phẩm này lại được nhà đài để ý đến cũng không chừng (tuy nhiên đoạn cuối hoành tráng quá, sợ rằng truyền hình ta làm không nổi).
Có thể thấy rõ, tác giả là người rất có tâm với Hà Nội, mong muốn dùng ngòi bút của mình góp chút sức lực để làm cho thủ đô đẹp hơn, văn minh hơn. Dụng ý ấy rất đáng quý, rất đáng trân trọng.
Nhân vật trong tiểu phẩm này mang hơi hướng cổ tích, lời văn cũng khá hồn nhiên, cộng thêm chút dí dỏm của tác giả nên nhìn chung đọc cũng không đến nỗi nào. Có điều một tiểu phẩm như vậy lẽ ra không nên xuất hiện ở một cuộc thi kiếm hiệp, cho dù mào đầu tác giả đã lái chất kiếm hiệp theo quan niệm của mình, nhưng không thể nào nói đây là một truyện kiếm hiệp được.
Truyện còn chưa phải, nói gì đến kiếm hiệp?
Bởi vậy, tuy rất hoan nghênh tinh thần của tác giả, rất kính trọng cái tâm của tác giả, tại hạ cũng mạn phép bỏ truyện này ra, không chấm.
Xin cáo lỗi!
Truyện số 9, Trúc Tử:
Trúc Tử là thể loại kiếm hiệp trinh thám, xây dựng theo lối Cổ Long, lời văn nhẹ nhàng tự nhiên, dễ đọc dễ cảm. Không gian truyện trong trẻo, sáng rõ, người đọc không gặp khó khăn gì khi hòa mình vào hoàn cảnh câu chuyện.
Vụ án trong truyện khá ly kỳ ngoắt ngoéo, tiềm ẩn bất ngờ, nhân vật đều rất có thần, kết cấu chặt chẽ súc tích, không dài dòng thừa thãi. Tác giả đã đầu tư rất nhiều công lao để bày binh bố trận, một khối lượng tình tiết khá lớn gói gọn trong mấy chục trang mà vẫn chi tiết đầy đủ, đáng tiếc một số chi tiết nhỏ lại không được chăm sóc đúng mức, dẫn đến những phản cảm không đáng có.
Ví dụ như ngay mở đầu câu chuyện, tác giả cho nhân vật trổ tài nhận xét cỗ kiệu, nhưng thú thực tại hạ không phục sự quan sát cũng như suy luận của y, nó có vẻ gì đó quy chụp, đoán già đoán non nhưng mở miệng lại khẳng định như đinh đóng cột, không thể hiện sự khách quan sáng suốt của một "thám tử" già dặn. Nhưng nói chung đây chỉ là những thiếu sót nhỏ, nếu tác giả bỏ công thêm một chút, có thể khắc phục không khó khăn gì.
Nhân vật trong truyện cũng có một hạn chế, đó là thấp thoáng hình bóng của những nhân vật trong các danh tác đời trước, nhất là các nhân vật của Cổ Long. Có điều dụng ý chính của tác giả không phải là miêu tả tình cảm hay lột tả con người, vậy ta cũng không nên quá chú ý đến điều đó, chỉ nên nói qua thế này: Nhân vật khiến cho tại hạ có cảm tình nhất là Phương nhị công tử, nhân vật gây phản cảm nhất là Trúc Tử, nhân vật đáng sợ nhất là kẻ đã chết - Phương đại công tử, nhân vật gây thất vọng nhất là Đinh Triển Bạch. Không biết những cảm nghĩ đó có giống với tác giả hay không?
Cuối cùng, vì sự trí tuệ sắc sảo của tác giả và tiềm năng tương lai của cốt truyện, xin mạn phép chấm truyện ngắn này 80 điểm.
Truyện số 10, Nhập Thế
Nhập Thế lấy bối cảnh thuần Việt, mở đầu đã tỏ rõ tình yêu sâu sắc của tác giả với quê hương, quả thật rất đáng trân trọng. Nhưng đáng tiếc, nối tiếp theo đó chỉ là những tình cảm nhàn nhạt, không có khí sắc. Tình yêu đôi lứa, tình cảm huynh đệ sinh ly tử biệt, tình giữa cao thủ với cao thủ, tình người giữa những kẻ xa lạ... mỗi thứ tác giả chạm tới một chút, nhưng đều rất ước lệ, khuôn sáo, nhạt nhòa.
Cuộc phiêu lưu của mấy sư huynh đệ cũng không gây ra cảm giác căng thẳng, hồi hộp. Với một số lượng chữ không lớn, tác giả bày ra tới bốn cửa ải để họ vượt qua, do đó diễn tiến đều quá đơn giản, kết thúc mỗi trận chiến đều khá hụt hẫng. Điểm sáng nhất trong truyện chính là côn pháp của phái Lĩnh Nam, nhưng ngoài Nguyên Vũ thể hiện được chút khí chất, mấy người kia đều rất bình thường.
Lời văn của Nhập Thế khá giản dị, nhưng cũng có thể thấy rõ tác giả đã dụng công không ít, sử dụng ngôn từ, ngữ pháp rất cẩn trọng. Nhưng, cũng chính vì vậy mà mạch văn thiếu sự đột biến, từ đầu đến cuối cứ đều đều, không gây được sự cuốn hút.
Tóm lại, đây là một truyện ngắn ở mức trung bình cả về văn phong lẫn nội dung, nhưng không thể phủ nhận tác giả đã viết một cách rất nghiêm túc, là người rất có tâm. Bởi vậy, xin chấm 60 điểm.
Truyện số 11, Mỹ Nhân
Mới nghe tựa đề, tại hạ tưởng phen này được gặp giai nhân, không ngờ vừa mới mào đầu tác giả đã cho tên Lý Tam tuôn ra một tràng những lời lẽ thô tục. Có lẽ tại hạ là người hơi cổ hủ, nên thú thật là hơi ác cảm với tần suất nói tục ấy trong văn chương. Trong đời thường thì không sao, nhưng trong văn chương thì không nên.
Thật ra khi miêu tả một người thô lỗ, không nhất thiết phải cho người ấy nói những từ quá mất vệ sinh. Như Chí Phèo của Nam Cao hay Tú Bà của Nguyễn Du, không ai bảo họ là người tử tế lịch sự, thế nhưng lời họ nói ra chỉ có thể khiến độc giả mỉm cười, chứ không phải là chau mày. Có lẽ tác giả nên xem xét và suy nghĩ vấn đề này một cách nghiêm túc.
Bỏ qua vấn đề nhỏ ấy, bây giờ xét đến những thứ quan trọng hơn.
Đây là một truyện ngắn trình bày theo một kiểu ít gặp, mỗi nhân vật chiếm một đoạn truyện, tự độc thoại hoặc như tâm sự với người khác. Lối trình bày lạ lẫm như vậy, cộng thêm lời văn như mây trôi nước chảy, quả thật có sức cuốn hút khá lớn.
Tác giả rất có tài tả cảnh, tả tình, mọi thứ hiện lên qua lời kể của từng nhân vật hết sức sống động. Đó là ưu điểm của tác giả, nhưng khi áp dụng vào lối văn kể và tự sự thì lại không phù hợp lắm. Chẳng hạn như đoạn của vợ Lý Tam: "Thiếp thấy bác mõ già đêm nào cũng xách chiếc đèn lồng sờn nát dạo khắp bốn cửa năm phường, thỉnh thoảng lại hô to một tiếng báo hiệu canh mới, trông chẳng khác nào một chú đom đóm lập lòe. Thiếp thấy anh phu đen đúa mới tờ mờ sáng đã chạy qua chạy lại giao hàng, hệt như một chú chuột chù tất bật kiếm ăn". Lời văn tuy hay, nhưng sáo, thiếu đi vẻ chân thật tự nhiên cần có, trở thành nửa giống như lời dẫn truyện, nửa giống như lời thoại trong kịch nói.
Ngoài ra, còn một vài lỗi nhỏ trong cách dùng từ, đôi chỗ quá hiện đại, đôi chỗ lại sai ngữ nghĩa, nhưng đều không đáng nhắc tới.
Về nội dung, truyện ngắn này khai thác bối cảnh Trung Hoa cổ, motip cũng rất cũ, tuy có chất trí tuệ nhưng không nhiều chất sáng tạo. Nhân vật cũng chỉ thuộc hạng trung bình, không quá mờ nhạt nhưng cũng không quá xuất sắc, và vợ của Lý Tam chính là điểm sáng nhất.
Đoạn kết có chút bất ngờ, nhân vật vẫn hạnh phúc dù đại họa giáng xuống đầu, biểu hiện tấm lòng yêu cuộc sống và rất nhân hậu của tác giả.
Truyện này, cũng giống như truyện số 8, vì không có chất kiếm hiệp nên tại hạ xin phép được bỏ ra, không chấm.
TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile