SÁT THÁT CHIẾN CA
Đây không phải là một tác phẩm võ hiệp lịch sử... Hoàn toàn không chủ định viết về lịch sử.
Đây chỉ đơn thuần là tác giả đưa những nhân vật trong sử sách vào một bối cảnh huyễn hoặc giả định mà thôi.
I – Sát, Tất Sát
Đại La thành,
Đường xá hôm nay đông đúc lạ kỳ, hơn hẳn những ngày thường nhật. Thậm chí phố xá vào ngày chợ phiên cũng chưa chắc đã tấp nập bằng. Thiên hạ đổ dồn về những tuyến đường chính, người người chen chúc nhau đứng chật kín hai lề đường. Có một điều lạ là đường phố vốn dĩ rộng rãi, nhưng dân chúng thà chen nhau chật ních chứ không một ai dám bước ra giữa lòng đường. Quán xá, cửa tiệm hầu hết đã đóng cửa.
Vì sao lại như vậy?
Vì tất cả chúng dân đều đang chờ đợi. Họ chờ đợi một vĩ nhân sẽ xuất hiện trên nẻo đường này. Một đại nhân vật trong triều đình mà tới cả Hoàng Đế cũng phải vị nể ba phần. Trong dân gian, người ta đã tục phong cho ngài là Thánh, một vị Thánh sống đã giải phóng dân tộc khỏi giặc ngoại xâm.
Có người nói ngài là Tướng nhà trời giáng thế để phò tá quốc gia.
Có người nói ngài là bậc kỳ tài ngàn năm có một, là trụ cột lớn nhất của nước nhà.
Có người thì lại khẳng định ngài là thần nhân, bất tử bất diệt.
Nhưng tựu chung lại, ngài vẫn là một đại nhân vật được muôn dân tôn kính, một niềm tự hào dân tộc đã ăn sâu vào máu thịt của người nước Nam. Đại Việt có được hào quang và vị thế như hôm nay, không thể không nhắc tới công sức của ngài. Đối với bách tính trăm họ, để được diện kiến dung nhan của một vĩ nhân như thế, dù có chen chúc gấp mười lần, chôn chân dưới trời nắng chói chang gấp mười lần như hiện tại, họ cũng đều cam tâm tình nguyện.
Bởi lẽ ai ai cũng đều tôn kính tuyệt đối đức Thánh sống ấy!
Nhưng tất cả chỉ trừ ra một người.
Y cũng đứng chen chân dưới trời nắng, cũng đổ mồ hôi nhễ nhại như bao người. Nhưng khái niệm chờ đợi của y lại không giống như thiên hạ xung quanh mình. Người ta chờ đợi để được thấy, được nhìn, được chiêm ngưỡng. Y chờ đợi để được hành động, để được làm một cái việc kinh thiên động địa.
Ám sát một vị Thánh.
Trong giang hồ có không ít truyền ngôn về những kỳ tích mà đại nhân vật kia đối phó với đám sát thủ lúc nào cũng chầu trực quanh mình. Người ta tổng kết được rằng có tổng số mười tám lần ngài bị ám sát. Sát thủ thuộc hàng nhất lưu tham gia ám sát ngài đếm được hai mươi bốn tên tất cả. Sau khi ám sát, có mười lăm tên đã bị giết ngay tại hiện trường, có bảy tên tự sát khi thất bại, còn hai tên được đánh giá cao nhất thì tự nhiên biến mất khỏi cõi đời. Từ võ lâm hắc đạo, bạch đạo, công sai, phiến môn, tất cả những kẻ có dính líu tới giang hồ đều tự nhiên không ai nhắc tới hai kẻ này nữa. Tựa hồ như chúng chưa từng tồn tại trên cõi đời này vậy.
Một trong hai kẻ đấy được mệnh danh là Vô Thanh Tử Thần, tên là Vô Âm Tiễn, gốc gác người Cao Ly. Y được gọi tên như vậy do sở trường dùng một mũi phi tiễn làm ám khí. Khi y phát tên, vô luận là cao thủ thế nào đều không ai có thể nghe ra bất cứ một âm thanh gì. Tên bay rất nhanh, lực đạo rất mạnh nhưng lại hoàn toàn vô thanh vô tức. Phần lớn kẻ bị Vô Âm Tiễn ám sát đều chỉ nhận ra phi tiễn của y khi nó cắm xuyên qua yết hầu. Vô Thanh Tử Thần từng ra tay ám sát ba mươi đại nhân vật của các nước. Từ Đại tướng quân, Vương gia, Tể tướng, Thái sư, Cự phú, Hắc - Bạch lưỡng đạo Tông chủ, y chưa một lần thất bại dù có phải đối phó với sự phòng thủ bảo vệ như thiên la địa võng.
Nhưng rốt cuộc khi ám sát vị Thánh sống kia, y lại biến mất khỏi cõi đời.
Có một kẻ vô tình được chứng kiến chuyện đó có kể lại như thế này. Lần đó, ngài cũng đi thăm thú phố xá, hỏi han bách tính như hôm nay. Giữa đường hai bên rất đông đúc chúng dân, đứng chật kín cả một quãng đường dài. Vô Âm Tiễn cho người giả làm thường dân mai phục hai bên đường, phía dưới lòng đường có đặt thuốc nổ, khi có hiệu lệnh là lập tức kích hoạt. Thuốc nổ không lớn, chỉ đủ để gây rối loạn, không đủ để nổ tan xác đoàn kiệu. Vô Âm Tiễn cũng không hề có ý định dùng thuốc nổ để ám sát. Đối với y, một khi giết người là phải dùng phi tiễn của mình. Có như thế, y mới cảm thấy sảng khoái, tự tin mà tận hưởng chiến thắng được.
Khi kiệu của ngài tới, Vô Âm Tiễn cho phát nổ bộc phá, ra lệnh cho đám sát thủ lâu la xông tới chém giết đám cảnh binh đi hộ tống. Trong lúc hỗn loạn, y ném Vô Thanh Phi Tiễn độc môn của mình vào trong kiệu, nhanh gấp năm lần bình thường, mạnh gấp bảy lần bình thường. Đại để là y đã dốc trọn thực lực trong đòn sát thủ ấy.
Phi tiễn đã ném ra, nhưng chiếc kiệu vẫn không có động tĩnh gì. Một tiếng kêu nhỏ cũng không. Trong khi đó, đại nhân vật này xưa nay không bao giờ phải tráo kiệu, hay dùng kiệu giả thế mạng mình. Vô Âm Tiễn cảm thấy dị nghị không yên, ném thêm hai phi tiễn từ hai phía bay lại, tốc độ lại tăng thêm hai phần. Hai mũi phi tiễn bắn vào kiệu, rồi cũng vô thanh vô tức biến mất, không có một dấu hiệu nhỏ nào xảy ra.
Từ xưa tới nay, tên của y vốn được coi là bách phát bách trúng.
Vô Thanh Tử Thần - Vô Âm Tiễn nóng ruột không yên, quyết định liều mạng thăm dò thực hư. Gã không tin có kẻ trúng phải phi tiễn của mình mà không hộc lên đau đớn. Bởi lẽ tên của gã vốn có độc, lại là thứ kịch độc khiến người ta đau đớn khốn cùng. Khi nó xuyên quá yết hầu, độc tính lập tức lan theo máu khiến nạn nhân khổ sở vô cùng. Thường khi trúng tên, người ta sẽ khò khè hay hộc lên từng cơn thảm thiết. Vô Âm Tiễn thích nhất là đứng từ xa lắng nghe thứ âm thanh rợn người ấy. Y coi đó là thứ khoái cảm lớn nhất của đời sát thủ mà mình theo đuổi.
Vô Âm Tiễn là sát thủ, mà sát thủ thường là kẻ cẩn thận chỉnh chu. Vì nếu không cẩn thận chỉnh chu, chúng thường sẽ chết rất chóng. Vô Âm Tiễn lại là một sát thủ lâu năm, y sống cũng khá lâu, hưởng thụ cũng đã nhiều. Gã dự định sau phi vụ lần này sẽ rửa tay gác kiếm, trở thành một vị phú hộ gia tài ức vạn, tận hưởng hoan lạc.
Đa phần thì những kẻ tồn tại trên giang hồ, không ai là không muốn tạo ra chiến công oanh liệt trước khi quy ẩn. Nhưng những kẻ đã tạo ra được chiến công oanh liệt, lưu danh thiên cổ thường lại khó có thể quy ẩn thành công. Một là y lại bị vòng xoáy của danh vọng, thù hận cuốn vào và không thể tự gỡ mình ra được. Hai là, y đã chết, mà những cái chết như thế thường rất thảm!
Vô Thanh Tử Thần quyết tâm lập một kỳ tích để đời, thứ có thể tôn vinh y thành đệ nhất sát thủ trong truyền thuyết. Y chuẩn bị rất chu đáo, y nghiên cứu đối thủ rất cẩn thận, y hành sự vô cùng kín kẽ. Do đó, y rất tự tin. Những kẻ tự tin khi đứng trước danh vọng, tiếng tăm hay viễn cảnh tương lai rạng rỡ lại hay bị ám ảnh. Ám ảnh thì hay khiến người ta đôi khi hành động có hơi hồ đồ một chút.
Vô Âm Tiễn không tin là nạn nhân của y có thể toàn mạng. Xưa nay, chưa kẻ nào khiến y phải phát ra ba mũi phi tiễn. “Nhất kích tất sát” đã là phong cách đặc trưng của y, thế nên y mới quyết định lao tới kiểm chứng. Dù hành động này là vô cùng liều lĩnh, song y vẫn tin mình có thể thoát lui nếu gặp nguy hiểm. Bởi lẽ, gã khinh công không hề tệ, nếu không muốn nói là xuất sắc. Gã cũng đã phát ám hiệu với đồng bọn, sẵn sàng hộ vệ để gã tháo lui nếu cần.
Nói tóm lại, tiến hay thoái thì Vô Âm Tiễn đều đã chuẩn bị kỹ càng. Y không thể thất bại, tuyệt đối không thể thất bại.
Tất cả chỉ diễn ra trong một cái chớp nhoáng, y lao vào trong kiệu, hai tay thủ sẵn hai mũi phi tiễn. Rồi người ta thấy chiếc kiệu hơi rung lên một cái, lại nghe thấy tiếng y kêu “Á” một tiếng. Sau đó thì im lặng, và rồi một bàn tay hé rèm kiệu ném ra năm mũi phi tiễn xuống đất.
Từ đó người ta không bao giờ nghe thấy cái tên Vô Âm Tiễn nữa.
Câu truyện về đệ nhất sát thủ Vô Thanh Tử Thần Vô Âm Tiễn là như vậy. Gã thanh niên đang đứng hòa lẫn vào đám đông ven đường chờ ngài Thánh sống đi qua cũng đã nghe câu truyện này không chỉ một lần. Mồ hôi rịn ra trên trán, bết vào mái tóc rối dính đầy bụi bặm, khuôn mặt y cháy nắng xạm đen, nhếch nhác vài vệt bùn đất. Quầng mắt y thâm, sâu hõm, hốc hác vì nhiều đêm không ngủ nhưng nhãn quang vẫn lang láng hữu thần. Y phục y đang mặc tả tơi nhiều chỗ, két bẩn từng mảng. Mùi mồ hôi khen khét quyện với thứ mùi nồng hắc của trâu bò từ thân thể y tỏa ra khiến đám người xung quanh không ai dám đứng gần. Vì thế cũng ít ai ngửi thấy mùi máu tanh tanh nơi thân thể y. Trông y nhếch nhác không khác gì một tên ăn mày, một kẻ cùng đinh. Nhưng y tuyệt đối không xem trọng việc đó. Và y cũng chẳng thèm để ý thái độ của thiên hạ đối với mình làm gì.
Vì y đang nghĩ, nghĩ rất dữ, rất nặng nề, rất trầm trọng.
“Giết hay không giết”.
Ánh nắng gắt chiếu thẳng vào đỉnh đầu y, khuôn mặt y đanh lại, đầu tựa như bốc hỏa. Tấm gương của Vô Âm Tiễn vẫn hiển hiện trước mắt. Giết một người không thể giết, liệu có phải là hành động khôn ngoan? Thực lực của y so với Vô Âm Tiễn, đừng nói một mũi phi tiễn, mà có nửa mũi tên y cũng chưa chắc so bì được. Như thế, ám sát người ấy khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết?
Y biết việc này là lao đầu vào cửa tử, nhưng y vẫn quyết tâm lao vào. Đối với nam nhân, có những việc không thể không làm dù nó chứa đựng vô vàn nguy hiểm, thậm chí là đưa người ta vào chỗ tử vong. Y bặm môi, siết chặt hai bàn tay lại, nơi hữu thủ khẽ nhói lên một cái.
Chiếc áo rách rưới bẩn thỉu y đang mặc vốn được may bằng thứ vải thượng hạng, rất mềm, rất mát, thường được y dùng khi tản bộ trong vườn nhà. Ống tay áo hơi dài một chút, vì y có sở thích mặc áo dài tay, chỉ tới khi vận động cánh tay trắng thư sinh mới lộ ra, vô cùng ưu nhã. Bên trong ống tay ấy, bàn tay phải y đang nắm lấy một thanh tiểu kiếm. Thanh kiếm nhỏ bé, thanh mảnh như một chiếc lá trúc, dài mười hai phân. Kiếm màu xanh ngọc, được trạm chổ tinh vi, là vật chí bảo trong lúc lâm chung phụ thân y trao lại. Lưỡi kiếm mềm mịn như má đào của thiếu nữ tuổi trăng tròn, sắc như cái liếc mắt của mỹ nữ đa tình lúc ghen tuông. Tiểu kiếm chỉ dài mười hai phân nhưng vô cùng sắc bén, có thể xuyên qua bất cứ thứ giáp trụ nào.
“Năm mươi hai nhân mạng già trẻ lớn bé đều bị giết sạch trong một đêm”, bàn tay y lại siết chặt thêm, lưỡi tiểu kiếm rạch khẽ vào lòng bàn tay, dòng máu nóng chảy ra ươn ướt. Khóe mắt y cay cay, nước mắt đã chảy ra tự bao giờ. Cũng may, bộ dạng y lôi thôi nhếch nhác, do đó cũng chẳng mấy ai thèm để ý.
“Thần nhân, Thánh sống, vì nước vì dân! Nhảm nhí!”
“Y chỉ là một con quỷ, một ác quỷ khát máu vô nhân tính!”
“Y phải chết! Phải đền tội!”
“Choang”, tiếng thanh la chói tai đưa gã về với thực tại. Thiên hạ hai bên đường nhốn nháo không yên. Từ xa một đoàn người trống dong cờ mở kéo tới, đi đầu là hai tráng binh cưỡi ngựa hùng dũng oai phong. Phía sau một đại hán lực lưỡng cầm thanh la lớn, cứ tiến ba bước lại gõ thanh la một lần. Giọng đại hán quát to như tiếng sấm, dân tình nghe thấy cả kinh vội vàng lùi sát vào hai bên đường.
“Quốc Công Tiết Chế - Hưng Đạo Đại Vương tới!”
Danh hiệu vừa xướng, chúng dân không ngớt xôn xao bàn tán. Lần lượt như một làn sóng, mọi người nhất loạt quỳ rạp xuống hai bên đường. Hưng Đạo Đại Vương mỗi khi đi tuần thú, thường không bắt bách tính phải nghênh tiếp mình, lại càng không bắt ai phải hành đại lễ. Nhưng trong lòng dân, ông không khác nào một vị Thánh, được trăm vạn con dân yêu kính, tất cả đều tình nguyện vì ông mà thể hiện lòng tôn kính. Hưng Đạo Vương hiển nhiên cũng hiểu được điều ấy, thế nên đoàn hộ tống ông thường không quá đông, di chuyển thường rất nhanh để tránh phiền hà trăm họ.
Y cũng đang quỳ, nhưng tư thế của y tựa như con báo đang gườm mồi. Chỉ cần một tín hiệu, một thời cơ, nó sẽ bật mạnh thần tốc chộp lấy con mồi của mình. Khoảng cách của y không quá gần, cũng không quá xa đoàn kiệu. Nếu quá gần, rất dễ bị tinh binh hộ tống đề phòng cảnh giác, khó hành sự. Nếu quá xa, khả năng tiếp cận bị giảm, xác suất thành công lại càng nhỏ. Vị trí tiếp cận cũng hết sức quan trọng, sát thủ trà trộn thì không nên đứng gần đám nam nhân. Vì nam nhân có không ít kẻ quan sát tinh tế, phản ứng lại nhanh nhẹn. Nên khi cần ra tay, không biết lúc nào sẽ nảy sinh rủi ro bất ngờ. Cũng không nên đứng gần người già, vì người già tác phong chậm chạp dễ tạo thành vật vướng chân, lại hay đứng ở xa nên sẽ không có được tiên cơ tốt nhất.
Y chọn vị trí gần đám đàn bà con gái, vì đám đàn bà dù hay quan sát nhưng lại là sự quan sát vặt. Nhìn y chỉ thấy là một kẻ nhếch nhác bẩn thỉu, tâm lý sợ dơ bẩn lại càng có ý tránh xa. Chưa kể đám nữ nhân phản xạ đa phần chậm chạp, thể chất yếu ớt nên không thể làm khó được gì.
“Rầm rập... rầm rập”, đoán hộ tống Quốc Công Tiết Chế bước từng bước vừa nhanh vừa mạnh đi qua mặt đám dân đen. Cứ ba bước chân thì lại một tiếng thanh la chói tai vang lên. Kiệu của Hưng Đạo Vương không quá lớn, chỉ vừa đủ sử dụng, cũng không dát vàng khảm bạc gì cầu kỳ. Đó chỉ đơn giản là một chiếc kiệu gỗ, có sơn son thiếp vàng nhưng quả thật vô cùng bình dị khi đem so với địa vị của ngài.
Bản thân Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn vốn không phải người thích phô trương. Thậm chí ông ghét cả sự phô trương kệnh cỡm.
Chiếc kiệu do bốn tráng đinh lực lưỡng khiêng, bước đi băng băng trên đường mà không hề rung lắc. Phía trước có hai vệ sĩ cưỡi ngựa, mặc gia phục của nhà Hưng Đạo Vương, mày đao mắt kiếm, mặt lạnh như tiền. Phía sau có cũng có hai hộ vệ của nhà vương gia, thân hình mảnh khảnh, mặt trắng thư sinh, thoạt nhìn có nét của nữ tử. Bao quanh mặt trước của kiệu Hưng Đạo Vương là mười hai tinh binh tráng kiệt, xếp thành ba hàng, tay kề vào đại đao, thái độ trầm trọng. Phía sau được hộ vệ bởi mười hai tráng binh tương tự, người nào người nấy tác phong nhất quán, hào khí bừng bừng. Đoàn hộ vệ đi qua, bá tính nhất loạt cúi đầu, song ai cũng len lén đưa mắt lên liếc vào chiếc kiệu của ngài Quốc công tiết chế.
“Giết hay không giết?”, kiệu đã rất gần y, bàn tay y vẫn siết chặt, hữu thủ đã nhễu máu nóng. Y suy nghĩ rất nhiều, song mục đã nheo cả lại, thần tình vô cùng căng thẳng.
“Giết hay không giết?”, kiệu đã gần y thêm một chút...
“Giết hay không giết?”, kiệu đã tới thật gần y...
“Giết... hay không?”, kiệu đã tới nơi.
Trong một khoảnh khắc, y đột ngột xoay bàn tay phải, giấu thanh tiểu kiếm vào trong. Thân hình y như con báo đã chờ đợi tới thời cơ, toàn bộ cơ bắp, năng lượng bùng nổ trong một cái chớp mắt. Thân hình y phóng vút lên không, lao thẳng vào chiếc kiệu của vương gia.
“Giết! Phải giết!!”
Hữu thủ gã vươn ra phía trước, bàn tay bê bết máu. Máu lại bắn tung tóe như đám lá rơi bao lấy bàn tay phải. Chưởng kình như cuồng phong đánh tới, lăng lệ phi thường.
Diễn biến xảy ra quá bất ngờ, toàn trường ai nấy đều sửng sốt. Đám tinh binh vốn theo hầu Hưng Đạo Vương đã nhiều năm cũng nhất thời chấn động, sững ra trong một cái tích tắc. Nhưng tất cả đều mau chóng lấy lại bình tĩnh, đồng loạt bạt đao, sáng lóe chói mắt. Bàn tay máu của gã vẫn không hề nao núng, phi thẳng tới rừng đao trước mặt.
- Ác tặc! Mau đền tội!!
----------------
TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
II – Sát? Bất Sát!
Kình phong cuồn cuộn lao tới, đám tinh binh cận vệ Hưng Đạo Đại Vương đồng thời tuốt đao. Lập tức ba đại hán gần nhất tung người lên đón địch. Kẻ thứ nhất vung cả hai tay, bạt ra một đao theo thế “Hoành Tảo Thiên Quân”, đao kình quạt gió, khí thế phi thường. Kẻ thứ hai khinh công bất phàm, nhảy cao hơn hẳn hai gã còn lại, dụng lực chém xuống một đao, lực như sét đánh, theo thế “Lực Phách Hoa Sơn” bả xuống. Tên tinh binh thứ ba, lao lên sau cùng, đơn thuần chỉ đâm tới một đao. Nhưng cái đâm ấy lại là cái đâm của một khoái đao. Rất nhanh, rất hiểm. Đao của gã mỏng hơn hai tên kia một chút, dẹp hơn hai tên kia một chút nhưng lại dài hơn hai tên kia một chút. Đao chiêu xuất ra sau nhưng đao thế lại tới trước.
Gã thanh niên vừa thấy hai tráng binh nhảy lên một lượt, chớp mắt đã thấy khoái đao của tên còn lại xỉa tới yết hầu. Nhưng đà lao tới của y không vì thế mà dừng lại, y khẽ lả người về sau. Trong tích tắc, ba đường đao của đám tinh binh hộ vệ Hưng Đạo Đại Vương đã công tới. Nói rằng ba đao ấy cùng đánh vào y một lượt, nhưng tuyệt đối không thể cùng một lúc sát thương. Khoái đao của kẻ thứ ba, tuy xuất ra sau nhưng lại lao tới trước. Thế công là một đường thẳng, quán triệt hướng vào yết hầu của y. Đao của đại hán dụng chiêu “Hoành tảo thiên quân” ào ạt đi sau, dù y có đối phó được với đường khoái đao thứ nhất, đao này quyết sẽ chém y thành hai mảnh. Đao thế phạt ngang, nếu tránh thường chỉ có cách nhảy lên hoặc rạp người xuống. Y đang ở trên không, né được là điều cực khó. Mà thậm chí có né được thì chiêu “Lực Phách Hoa Sơn” từ trên bổ xuống quyết đem thân y tách làm hai phần.
Diễn biến xảy ra đột ngột nhưng không ngờ đám hộ vệ của Hưng Đạo Đại Vương lại phản xạ thật phi thường. Ba tên tinh binh trong lúc loạn mà không hoảng, đồng loạt xuất chiêu, phối hợp vô cùng ăn ý. Hiển nhiên năng lực không phải tầm thường. Đao thế giăng ra vô cùng kín kẽ, một con ruồi thậm chí cũng không lọt qua được.
Nhưng tiếc là, gã thanh niên không phải là một con ruồi. Vì ruồi thì không biết dụng võ. Và ruồi lại càng không dám ám sát Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương.
Thế nên, ba đường đao hung hiểm kia, chỉ một cái ngả người cũng đủ để gã tìm ra sơ hở. Khoái đao xé gió đâm tới, hữu thủ của gã cũng bung ra. Tên tráng binh dụng khoái đao chỉ thấy bàn tay phải của gã đang xòe, rồi lại nắm, rồi lại xòe. Nhưng tới lần thứ ba, đám tiên huyết đang xoáy lấy tay y đã hóa thành chục đạo ám khí bắn thẳng vào mặt hắn. Khoái đao sắc mặt không đổi, y khẽ lắc đầu sang một bên, mũi đao vẫn thẳng tưng đâm tới.
Nhưng cái gã thanh niên cần, không phải là mũi đao lệch đi. Cái y cần là đối thủ nghiêng đầu một cái. Đối thủ của y nghiêng đầu một cái, có nghĩa là tầm nhìn của hắn sẽ bị biến đổi. Tầm nhìn của hắn bị biến đổi, có nghĩa là chưởng pháp của y đã táp thẳng vào bả vai địch thủ.
Gã khoái đao chỉ mới hơi nghiêng đầu đã cảm thấy bả vai của mình đau buốt. Tiếp đến y thấy khí huyết nhộn nhạo, rồi thân hình rơi bịch xuống. Trong khoảnh khắc dập mặt xuống đường, y còn kịp nhìn thấy hai đồng đội bị gã kia đánh văng về hai phía.
Đại hán dùng đao phạt ngang thấy bạn mình bị hạ, động nộ gia tăng đao kình. Khí thế một chiêu “Hoành Tảo Thiên Quân” như nước lũ vỡ bờ, ào ạt quét tới. Gã thanh niên dụng một chưởng đánh văng tên khoái đao thì thân hình cuộn tròn trên không trung. Hai tay ôm chặt vào người, thân thủ như con lăn cuốn tới.
“Tay trái hay tay phải”, Đại hán dụng đao phân vân. Y băn khoăn nhưng đao chém ra vẫn không chậm lại. Y lo lắng không biết gã sát thủ liều lĩnh này sẽ dùng tay nào để đối phó với đao chiêu của mình. Bởi lẽ, chứng kiến cảnh tên đồng bọn cùng mình ăn cơm công môn hơn hai mươi năm chỉ trong một chiêu đã bại, y không khỏi có chút động tâm.
“Trái hay phải?”
“Lão tam nổi tiếng là cao thủ khoái đao, vậy mà một chiêu thôi...”. Đường đao của y đã tới sát hông đối thủ.
“Trái hay phải?”, đao phong ồ ạt thổi tới mạng sườn gã thanh niên.
“Trái!!”, gã thanh niên tả thủ vung ra.
“Không là PHẢI!”, trong một chớp nhoáng hữu thủ gã thanh niên thần tốc đánh tới thanh đại đao. Chưởng kình hùng hậu hướng vào mặt đao vừa dày vừa rộng mà vỗ mạnh. Tên tráng binh thấy chưởng pháp của đối phương bất phàm, lập tức lắc hai cổ tay, hướng lưỡi đao phạt mạnh lên. Song chưởng pháp của gã thanh niên lại biến đổi vô cùng kì dị. Khi mặt đao vừa nghiêng, lưỡi đao lách lên chém tới, hữu thủ của y như chiếc lá bị gió tạt đi, xiêu xiêu áp vào bề mặt thanh đao. Rồi “tâng” một tiếng thép lạnh ngắt, thanh đại đao vừa to vừa dày đã bị chấn văng.
Lúc này, chiêu “Lực Phách Hoa Sơn” xả thẳng từ trên xuống của tên tráng binh còn lại đã tới nơi. Đao thế nhanh như sét đánh, xé gió chém thẳng một đường vào đỉnh đầu y. Gã đại hán thấy đồng đội nắm thượng phong, dù đao đã mất vẫn xuất hết nội lực, đấm ra ba quyền vào đối thủ.
Chính thị ba quyền này lại là thứ cứu mạng cho gã thanh niên. Mỗi quyền đại hán đánh ra, y dùng thủ chưởng đón đỡ. Nội lực của tên đại hán không phải là yếu kém, song cứ một quyền đấm vào bàn tay địch nhân thì lại chệch đi một hướng bất kỳ. Kình lực của gã xuất ra cũng theo đó mà tiêu thất. Không chỉ song thủ của gã thanh niên biến đổi dị thường, phiêu phiêu hốt hốt như chiếc lá trong gió mà bộ pháp, thân pháp của y cũng chuyển biến theo một đường như vậy.
Y tung chân đạp một cước tống gã đại hán thứ hai rơi xuống đất. Đường đao như sét đánh của tên tráng binh còn lại chém xả xuống, y lại như chiếc lá bị đao phong đánh dạt đi. Tất cả chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc điện quang hỏa thạch. Lưỡi đao ác hiểm đánh sượt qua người gã thanh niên, chỉ cách nửa ly là có thể liếm trọn vào má phải của y. Tên tráng binh còn lại chỉ thấy một bàn tay rắn như thép chộp lấy cổ tay mình, rồi kéo mạnh một cái tống thẳng y xuống đất. Khớp cổ tay đã bị bẻ lệch, y có muốn cũng chẳng thể cầm đao hộ giá được nữa.
“Phong Lôi Diệp Vũ Chưởng Pháp”, Hộ vệ phía trái kiệu Hưng Đạo Vương khẽ lẩm bẩm, ánh mắt có chút xao động.
Gã thanh niên vọt qua ba tên tráng binh, mũi chân vừa chạm xuống đất thì lập tức bốn thanh đao đã nhằm vào y bổ tới. Bốn thanh đao này do bốn tráng binh tiếp theo chia thành bốn hướng chém vào. Bốn đao công phá, không hiểm, không mạnh, không ác, không biến. Chỉ đơn thuần là do bốn người cùng một lúc chém vào địch nhân. Nhưng thứ đao pháp này lại khiến người ta phải khiếp đảm.
Bởi lẽ bốn con người này hoạt động đồng đều, nhất quán như bốn cái máy đã được sắp đặt. Bất luận về hình thể, thân pháp, kình lực, đao lực, tốc độ, bộ pháp, thậm chí tới cả thanh đao được sử dụng họ đều giống nhau tới lạ kỳ. Tất cả tựa như được tạc từ một khuôn, một lò mà ra. Một đao chém thẳng thì đồng nghĩa với bốn thanh đao cùng một lúc chém thẳng. Một đao đâm tới thì có nghĩa là bốn thanh đao cùng một lúc đâm tới. Tất cả nhất quán đồng đều, không lệch một ly, không sai một khắc.
Giang hồ cách đây hơn mười năm trước từng xôn xao về một đám giặc cướp vùng Lĩnh Nam. Cầm đầu bởi bốn anh em nhà họ Đinh, được gọi là “Đinh Tứ Đao”. Có tên gọi này bởi lẽ cả bốn người đều dùng đao, cùng luyện một thứ đao pháp. Khi chiến đấu, bốn người hành động đồng nhất như một. Cao thủ giang hồ bị “Đinh Tứ Đao” chém chết không biết bao người. Hảo thủ nha môn được phái đi vây bắt phỉ đảng cũng nằm dưới đao của nhà họ Đinh nhiều vô số. Ác danh của bốn anh em “Đinh Tứ Đao” vì thế mà khét tiếng cả một vùng Lĩnh Nam rộng lớn.
Kỳ thật, bốn thanh đao nhà họ Đinh tuy mang tiếng là phỉ đồ ác đảng, song chân chính lại là những hảo hán giang hồ. Họ thường cướp của địa chủ chia cho dân nghèo, nhiều lần kéo đám huynh đệ thanh trừng tham quan gian ác. Đám gian quan lộng lành vốn quen thói hút máu dân đen đứng trước hành vi hiệp nghĩa của “Đinh Tứ Đao” không khỏi căm tức, sợ hãi. Chúng dựng tin đồn nhảm, bôi nhọ thanh danh, lại kéo nha binh nhiều lần vây đánh anh em họ Đinh nhưng đều thất bại. Cho tới một ngày, Hưng Đạo Đại Vương nhân công sự đi qua thăm thú vùng Lĩnh Nam. Ngài vừa tới đó đã giải quyết ba việc. Một là phế tri phủ cũ là tên tham quan vô lại, lập quan mới thanh liêm chính trực, cải tạo bộ máy cầm quyền. Hai là phát gạo cứu đói, ban chiếu của Hoàng Đế giảm thuế cho dân. Ba là dẹp yên nạn phỉ tặc quanh vùng. Từ đó, người ta không thấy “Đinh Tứ Đao” hoành hành trên giang hồ nữa.
Bốn đao nhà họ Đinh dù đã quy ẩn hơn mười năm song vẫn không hề mai một. Đao pháp quán tuyệt của bốn người cùng vây đánh một địch nhân. Sử dụng thứ đao pháp đồng nhất như vậy, sức ép, sự nguy hiểm, khó khăn mà họ đặt lên kẻ địch gia tăng không chỉ gấp bốn lần. Bốn người như một, một người như bốn, tất cả dồn gã thanh niên lớn gan kia vào tử lộ.
Nhưng có một vấn đề như thế này: Đao pháp nhà họ Đinh tuy bất phàm nhưng vẫn chưa được xếp vào một trong mười bộ võ công lợi hại nhất Đại Việt. Người ta tổng kết được mười bộ võ công mạnh nhất của phương Nam, gọi là “Đại Việt Hộ Quốc Thập Đại Thần Công”. Danh sách này không cố định, cứ độ năm năm lại được giang hồ làm mới một lần. Phần lớn sự thay đổi nằm ở cuối bảng, những bộ thần công ở nhóm trên đa phần bất biến.
“Đinh Tứ Đao” chưa bao giờ được lọt vào bảng vinh danh này. Song “Phong Lôi Diệp Vũ Chưởng” thì lại có. Thậm chí là đứng ở vị trí thứ năm. Trong vòng ba mươi năm trở lại đây, chưởng pháp này vẫn tại vị, không lên không xuống. Được lọt vào danh sách “Thập Đại Thần Công”, uy lực của nó hiển nhiên không thể dùng một hai lời để diễn giải.
Thế nên, “Đinh Tứ Đao” đã gặp phải một đối thủ không dễ đối phó. Mà quả thật, họ Đinh có cố cũng chưa thể đối phó nổi.
Đẳng cấp võ học vốn là một giá trị tương đối. Nhưng trong cái tương đối ấy, có những khoảng cách không thể vượt qua. Như ta là rồng, còn ngươi là rắn, ta là hổ còn ngươi là sói vậy. Một bầy rắn có thể quần công một con rồng, có thể làm tổn thương con rồng. Nhưng rồng là rồng, rắn là rắn. Rồng có thể giết rắn, chứ rắn nếu không có thiên cơ, tuyệt đối không thể hại rồng.
Nguyên tắc này luôn đúng, và tại hiện trường thì nó vẫn không sai. Gã thanh niên kia là rồng, bốn anh em họ Đinh là rắn. Chỉ có điều, hiện tại thì rắn lại nắm thượng phong, rồng thì ôm thương tật. Bốn đao họ Đinh liên tục đâm, chém, xỉa không ngừng khiến cho gã phải vận dụng tối đa thân thủ kì ảo của mình mà tránh né. “Đinh Tứ Đao” tiến chậm mà chắc, cứ ba loạt đao thì tiến một bước. Bốn thanh đại đao bay vùn vụt trong gió, tạo thành một đao trận đồng nhất không kẽ hở. Gã thanh niên hai tay vận dụng “Phong Lôi Diệp Vũ Chưởng”, tựa như hai chiếc lá phong chơi vơi trong gió. Nhìn thì vô lực nhưng thật ra lại hàm chứa nội lực phi thường. Trông thì chậm chạm nhưng lại thần tốc biến hóa, trong tích tắc có thể phát công. Đám người họ Đinh cứ tiến hai bước thì gã lại lùi một bước. Hiện tại thì đã lùi tới ba bước, trải qua mười tám loạt đao hung hiểm.
Tới loạt đao thứ mười tám, gã thanh niên mới ngộ được ra một điểm hết sức quan trọng. Đó là thể lực của “Đinh Tứ Đao” vô cùng sung mãn, nội lực thâm hậu vượt xa ba tên tráng đinh trước đó. Mười tám loạt đao, loạt sau nhanh hơn loạt trước, mạnh hơn loạt trước, hiểm hơn loạt trước nhưng cả bốn anh em họ đều chưa hề xuống sức. Còn bản thân gã, đã chịu hai đao vào người. Vết thương không sâu nhưng cũng khiến vận động hơi khó chịu một chút. Một đao vào đùi bên phải, máu hiện tại đã chảy quá đầu gối. Một đao vào bả vai trái, máu cũng chảy chạm khuỷu tay.
Nếu càng đánh dai, gã càng bất lợi. Thương thế của gã vốn không nhẹ, khả năng chiến đấu hiện tại chủ yếu bằng hai thứ: hận thù và nghị lực. Đôi khi, hận thù tạo ra nghị lực và nghị lực lại được nuôi dưỡng bằng hận thù. Đối với không ít người, hận thù và nghị lực là thức dinh dưỡng tốt nhất để nuôi sống họ. Gã phải chẳng cũng thuộc vào đám người ấy?
Lùi tới bước thứ ba, né được loạt đao thứ mười tám, gã thanh niên quyết định một việc: phản công. Y chịu trận trong một thời thần như vậy cốt yếu để tìm ra được sơ hở của đao pháp nhà họ Đinh. Rốt cuộc, y cũng nhìn ra được điểm có thể đánh bại thứ công phu ấy. “Đinh Tứ Đao” sau mười tám loạt đao chém ra, tổng kết lại chỉ gồm có chín thế đao dùng đi dùng lại. Đâm ba, chém bốn, xỉa hai. Trong chín thế đao, bảy thế là tấn công, hai thế là phòng thủ. Trong hai thế thủ, tàng trữ bốn thế công; trong bảy thế công lại chỉ ẩn hai thế thủ. Nhược điểm, chính là nằm ở một thế công mà không tàng thế thủ ấy. Loạt đao thứ mười chín vừa phát động, yếu điểm đã lộ ra. Gã thanh niên không bỏ lỡ thời cơ, lập tức huy động song chưởng đánh tới.
Bộ pháp của y vốn như một chiếc lá trong gió. Gió nhẹ thì lá bay tà tà, gió mạnh thì lá bị cuốn phăng. Lúc này, gió đang rất dữ dội. Gió từ chính bản thân y phát ra, từ hai bàn tay dụng “Phong Lôi Diệp Vũ Chưởng” phát ra. Bản thân y là lá, mà cũng chính là gió. Đã có lá, đã có gió, vậy thì chỉ còn thiếu “Lôi”.
“Lôi” ở đâu ra giữa trời nắng chói chang bây giờ?
Câu trả lời nằm trong tay áo của gã thanh niên ấy. Thân thủ y ào tới đám huynh đệ họ Đinh mang theo cuồng phong dữ dội. Nhưng trong một cái tích tắc khi hữu thủ của y đánh ra, trong kẽ tay có kẹp một thanh tiểu kiếm.
Kiếm màu xanh ngọc, trông như một chiếc lá, chạm trổ tinh xảo, dài mười hai phân. Tiểu kiếm sáng lạnh, đẹp mà đáng sợ, nhỏ mà uy hiếp. Kiếm vừa được phóng ra thì người ta đã nghe thấy tiếng sét. Một tiếng sét giữa trời. Tiểu kiếm biến thành một tia sét xanh lao tới phá tan đao trận của nhà họ Đinh. Đao vừa loạn, gã đã áp sát, hữu thủ đánh ra liên tiếp bốn chưởng.
“Lôi Diệp Kiếm”, gã hộ vệ bên phải kiệu Hưng Đạo Vương thoáng trầm trồ. Ánh mắt y khẽ biến động trong một khoảnh khắc.
“Đinh Tứ Đao” hành động vốn nhất quán, đồng thời như máy móc, xưa nay không hề có sai lệch. Nhưng đó là khi cả bốn người cùng tấn công mục tiêu. Khi tấn công, tư tưởng, hành động dễ dàng đồng nhất vì đều có chung mục đích. Nhưng khi phải phòng thủ, nhất là phòng thủ lúc bất ngờ, chưa chắc hành vi vẫn quán triệt một đường. Vì lúc đó, người ta thường chỉ nghĩ tới sự an nguy của bản thân mình. Đã nghĩ cho bản thân mình, thì làm sao còn có thể phối hợp ăn khớp từng ly từng tí được?
Đao trận liền mạch bị ngắt, bốn anh em họ Đinh lần lượt mỗi người được thụ một chưởng vào ngực. Chưởng kình hùng hậu, như trận cuồng phong khiến cả bốn khí huyết nhộn nhạo, thần trí choáng váng. Bốn thanh đao đều đã bị gãy làm mấy mảnh khi va chạm với thanh tiểu kiếm được bắn ra.
Gã thanh niên sau khi đắc thủ, lập tức vọt ra khỏi thế trận của “Đinh Tứ Đao”. Gã đang rất vội, đang rất gấp, đang rất nóng lòng muốn lao thẳng vào chiếc kiệu kia. Song gã lại quên mất hai việc quan trọng. Một là đao gãy chưa chắc đã không đâm chém được. Hai là chó khôn bao giờ cũng vì chủ mà tận lực.
“Đinh Tứ Đao” vốn không phải là chó khôn, mà họ là những nô bộc trung thành. Nhưng nô bộc càng trung thành thì lại có xu hướng giống với chó khôn. Cả hai đều hết lòng vì chủ, tận lực vì chủ. Do đó, bốn thanh đao gãy, bốn người bị nội thương chưa chắc đã không đâm chém được.
Quả thật thì họ lại đâm chém rất tốt vì đối thủ đã chủ quan. Kẻ chủ quan thì tâm trí không được cẩn thận. Tâm trí không cẩn thận thì phòng bị không bao giờ được chỉnh chu. Hơn nữa, một kẻ bị thương không hề nhẹ, phòng bị vốn chưa bao giờ được chỉnh chu cả. Một kẻ bị oán thù ám ảnh, uất hận tới liều mạng thì tâm trí hiển nhiên cũng không bao giờ suy nghĩ được chín chắn.
Thế nên, y chịu tiếp ba đao. Ba đao này được đánh ra từ bốn thanh đao gãy nhưng hiệu quả mang lại thì hơn hẳn lúc chúng còn lành.
Đao thứ nhất xỉa vào mạng sườn phải của y. Dính phải đao thứ nhất, y chợt nghĩ tới cha mẹ của mình. Hai người đều có tuổi, thành thân muộn, sinh ra y cũng muộn. Y lại là độc đinh, là con duy nhất của họ. Thế nên từ bé đã rất được nuông chiều, được hai người dành cho tình yêu trọn vẹn. Đối với cha mẹ của y mà nói, y là chí bảo vô song, trên đời này không thứ gì sánh được. Cha y xuất thân võ tướng, mẹ y là bạn thanh mai trúc mã của ông. Vì chờ đợi cha y nơi chiến trường biền biệt mà mất cả thời con gái. Tình yêu hai người dành cho nhau đã lớn, khi đem đổ vào y thì lại càng nhiều hơn gấp bội.
“Cha ơi! Mẹ ơi!”, nước mắt y đã trào ra. Không phải vì đau do vết đao, mà đau vì thương cảm.
Đao thứ hai chém vào đùi phải của y, đúng ngay vết đao cũ. Máu bắn tóe ra, cẳng chân y tê dại. Y lại nghĩ tới những người thân trong nhà. Nhà y vốn rộng rãi, vui vẻ, lúc nào cũng có tiếng cười đùa. Cha y sau khi từ quan thường chỉ ở nhà chơi với con cái, ham mê đánh cờ, uống rượu. Y nhớ tới tam thúc của mình, ông là người rất vui tính, tuổi không còn trẻ nhưng hoạt bát chẳng kém thanh niên. Y nhớ năm y mười bốn tuổi, ông giấu cha đem y vào kỹ viện để “biết mùi đời”. Song khi tới nơi, y lại nghĩ tới Tiểu Dung nên đã trốn về. Chuyện này tới tai phụ thân, ông phạt Tam thúc ba tháng không được ăn cơm cùng cả nhà. Lúc đó nhìn thúc thúc vừa tội tội vừa buồn cười.
“Tam thúc ơi! Đỗ bá bá ơi! Cao Thắng ơi! Mọi người ơi!”, mắt gã đã cay xè. Nỗi đau trong tim càng quặn thắt. Từng hình bóng những người thân cứ lần lượt hiện về rõ ràng. Nhưng y vẫn bặm môi, hướng về phía trước.
Đao thứ ba là một đòn đâm, đâm thẳng vào ngực. Nhưng lưỡi đao đã bị lệch đi nên xuyên chéo vào bụng. Máu từ vết thương đang ồng ộc tuôn ra. Dính phải đao thứ ba thì gã nhìn thấy Tiểu Dung. Nàng vốn không thích bị gã gọi bằng cái tên này, vì như thế khiến nàng nghĩ mình bị coi là trẻ con. Dù rằng, tính nàng vẫn còn trẻ con lắm. Nàng xinh tươi như ánh nắng sớm, đẹp như đóa hướng dương. Lúc nào cũng tỏa sáng khiến người ta phải trầm trồ ngưỡng mộ. Nhưng thật sự, nàng rất dịu dàng, rất nhu mì và rất yêu gã. Cả hai cũng đã tính tới lúc thành thân, hai nhà cũng đã có lời qua lại.
“Thy Dung!”, gã gọi thầm tên nàng, nỗi buồn đau cũng có phần vơi bớt. Nàng không sao, nàng an toàn, nàng vẫn còn sống. Đối với gã đó là điều quan trọng cuối cùng.
Những cả nhà của gã giờ này còn ai? Toàn gia năm mươi hai nhân mạng bị kẻ ác giết hại. Già, trẻ, lớn bé, tất cả chết không còn một người. Lũ cầm thú dã man, tới gà chó cũng không từ. Gã còn sống ở trên đời này để làm gì nữa?
“Mọi người ơi! Mọi người chết thảm quá!”, gã vẫn lao lên, trước mắt đã mờ nhạt cả. Hình như là có vài cây đao nữa đang chắn ở trước mặt thì phải.
“OAN TÌNH NÀY BIẾT NÓI VỚI AI ĐÂY?!!”, gã thanh niên đã kiệt sức, kiệt lực. Sự gắng gượng của y, rốt cuộc cũng đã tới cực hạn. Y chúi người về phía trước, rồi ngã sấp xuống đất. Cách kiệu của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương vừa đúng một trượng. Một trượng ấy, xưa nay không mấy người bước vào được.
Gã nghiến răng, chống hai tay xuống đất, thanh tiểu kiếm vẫn nằm trong bàn tay phải. Ngước bộ mặt đẫm nước mắt, bê bết bẩn thỉu, đôi mắt ánh lên sự thống khổ không gì diễn tả nổi, y gồng mình gào lớn.
“Oan quá! Oan quá Đại Vương ơi!!”, gào xong thì ngã lăn ra đất, cơ hồ ngất lịm.
Từ trong đám đông hỗn loạn, không hiểu ai hét to một tiếng: “Giết hắn”. Đám tráng binh đi theo hộ vệ có kẻ nghiến răng căm tức, toan vung đao chém xuống. Chợt trong kiệu một giọng nói già nua, trầm trầm phát ra. Tiếng nói dù không lớn nhưng vang hết vào tai từng người. Chất giọng ấm áp, điềm đạm. Toàn trường hàng trăm người không ai không bị giọng nói ấy làm chấn động.
- Giết? Không giết!
Hộ vệ bên trái của kiệu Hưng Đạo Vương khẽ hé tai vào nghe chỉ thị của ngài. Y gật đầu mấy cái rồi lập tức quát to ra lệnh.
- Không một ai được rời khỏi hiện trường! Người đâu, mau áp giải tên này về nha phủ!
Nói xong thì quay sang gã hộ vệ bên phải, nói nhỏ.
- Ngươi vâng mệnh đại vương, đi theo giám thị, chú ý cho tên này!
--------------------
TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Góp ý cho thí sinh ở
http://tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=38984