Theo từ điển Hán Việt Thiều Chửu: 茶(trà) Cây chè, lá dùng chế ra các thứ chè uống.
Theo bảng phục chế tiếng Hán trung cổ của Baxter và Sagart thì 茶 đọc là ‘drae’ thanh điệu là ‘bình’. Viết theo chữ Quốc Ngữ là 'đrae'.
Theo qui tắc chuyển từ tiếng Hán trung cổ sang cách đọc Hán Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn thì thanh ‘bình’+‘t’ chuyển thành thanh ‘ngang’+’t’; thanh ‘bình’+’đ’chuyển thành thanh ‘huyền’+’t’. Vậy ‘bình’+’đrae’chuyển thành ‘tràe’.
Tiếng Việt không có nguyên âm kép ‘ae’.
Tiếng địa phương miền trung bỏ nguyên âm ‘e’ thành ‘trà’
Tiếng đia phương Hà Nội không có phụ âm ‘tr’ và ‘ch’ mà thay bằng một phụ âm lưỡi lợi giống ‘t’ và xát giống ‘x’, tạm viết là ‘tx’ để phân biệt. Tương tự phụ âm trong "it's" tiếng Anh. ‘tràe’ chuyển thành ‘txà’ và ‘txè’. ‘txà’ để đọc chữ Hán và xem như từ Hán Việt, ‘txè’dùng để dùng trong văn nói.
Chữ Quốc Ngữ ra đời ở Thanh Chiêm, Quảng Nam là nơi tiếng địa phương có phụ âm ‘ch’ và ‘tr’ mà không có ‘tx’. Trong tiếng Ý có phụ âm 'tx', chữ 'pizza' đọc là 'pit txa'. Có người Ý tham gia tạo ra chữ Quốc Ngữ, phụ âm 'gh', 'gi' lấy từ tiếng Ý . Sau này ‘txà’ được chính tả thành ‘trà’, ‘txè’ được chính tả thành ‘chè’.
Người Trung Quốc kiêng chữ ‘dược’ vì cho rằng nó liên quan đến bệnh tật nên nói tránh chữ thuốc mà thay bằng trà. Ví dụ như nhân sâm trà, cúc hoa trà, lương trà, khổ qua trà. Một số người Việt tuy không kiêng chữ thuốc nhưng cũng hùa theo nên ta có trà sâm, trà bông cúc, trà khổ qua, trà a ti sô.
Có ý kiến cho rằng sản phẩm không có lá trà mà in chữ trà trên bao bì là lừa giối khách hàng. Nên họ gọi là nước sâm, nước bông cúc, nước khổ qua, nước a ti sô; bông cúc khô, khổ qua khô, lá a ti sô khô, bông a ti sô khô, a ti sô túi lọc.
Chúng ta có cây mít, trái mít, mít khô; cây hồng, trái hồng, hồng khô; cây thuốc lá, lá thuốc lá, thuốc lá sợi; cây chanh, trái chanh, nước chanh; cây dừa, trái dừa, nước dừa; cây a ti sô, lá a ti sô, nước a ti sô; cây mía lau, nước mía lau vậy phải có cây chè, lá chè, chè khô, nước chè; cây trà, lá trà, trà khô, nước trà. Định nghĩa trà là lá chè đã qua chế biến là không hợp lý; nếu chỉ là tiếng địa phương thì chấp nhận được.
Lá chè đã qua chế biến thì được đóng gói, viết hoặc in tên sản phẩm trên bao bì. Theo truyền thống tên sản phẩm viết bằng chữ Hán茶. Sau này có chữ Quốc Ngữ thì đổi thành dạng Hán Việt là ‘trà’. Do đó có người cho rằng chè khô phải đọc theo tên trên bao bì nên là ‘trà’, còn lá chè tươi bán không có bao bì nên vẫn là ‘chè’. Có người nói trà làm từ búp chè. Búp là lá non. Lá non cũng là lá.
Theo bảng phục chế tiếng Hán thượng cổ cũng của Baxter và Sagart thì 茶 đọc là '*lˤra'. Nguyên âm là a. Nên nói chè là âm tiền Hán Việt là không đúng.